I. “Trình độ văn hóa”, “trình độ học vấn” hay chỉ đơn giản là “biết đọc biết viết”?
“Trình độ văn hóa” và “trình độ học vấn” là hai khái niệm rất dễ gây nhầm lẫn và bị thường bị đánh tráo khi nhận xét về cách cư xử của một người. Nếu “trình độ văn hóa” theo các mẫu khai sơ yếu lý lịch có ý nói về trình độ học vấn của người khai như “trung học cơ sở”, hay “đại học” thì tại sao có nhiều người học hành đàng hoàng vẫn bị chửi là đồ “vô văn hóa”?
Trình độ học vấn (educational background hoặc literacy background) được tính bằng số năm một người đi đến trường và số bằng cấp người đó đạt được sau khi tốt nghiệp. Nó bao gồm những điều thiết yếu như khả năng viết đúng chính tả, làm thông thạo bốn phép toán cơ bản, những nguyên tắc về đạo đức và cư xử và cả những thứ kiến thức cao siêu, khó hiểu và không thiết thực đối với cuộc sống hằng ngày của một người bình thường như tích phân, đạo hàm, lượng giác… Theo thời gian những thứ cao siêu hàn lâm đều rơi vãi dần mà thật ra chúng ta cũng chẳng buồn nhớ là đã bỏ rơi nó ở đâu vì hiếm khi ta dùng đến chúng trong cuộc sống. Điều đáng buồn là nhiều người đầu tư quá nhiều cho việc nâng cao trình độ học vấn để đảm bảo một tương lai công việc rộng mở và tài chính dồi dào mà coi nhẹ những kỹ năng rất thực tế của cuộc sống như khả năng giao tiếp, thường thức về sức khỏe, và những nguyên tắc ứng xử đạo đức cơ bản giữa người với người.
Trình độ văn hóa (cultural background) phản ánh sự hiểu biết và cách tiếp nhận của một người về những thứ liên quan trực tiếp tới cuộc sống của người đó hằng ngày: cách cư xử, giao tiếp, truyền thống, tôn giáo, lịch sử, chính trị, nghệ thuật…
Trình độ văn hóa của một người được hình thành và phát triển từ khi người đó bắt đầu nhận thức cho tới lúc chết đi từ những yếu tố bên ngoài như môi trường sống, cách giáo dục của gia đình, những người xung quanh hay môi trường làm việc cũng như những yếu tố bên trong của người đó ví dụ tính cách, sự ham học hỏi, tinh thần cầu tiến và khát vọng được mở mang kiến thức hay hoàn thiện bản thân mình. Đấy mới là thước đo giá trị thực sự của một người trong mắt người khác.
Không như trình độ học vấn, trình độ văn hóa không thể được đánh giá qua điểm số hay bằng cấp mà qua cách ứng xử với người khác. Chính vì vậy, không thể đánh giá “trình độ văn hóa” của một người sơ sài bằng tiêu chuẩn 12/12 hoặc đại học như khi khai sơ yếu lý lịch để xin việc làm. Việc đánh giá trình độ văn hóa của một người dựa trên số năm học ở trường là một điều hoàn toàn không có căn cứ.
Trên thực tế trình độ học vấn cao không bù đắp được cho sư khiếm khuyết trong trình độ văn hóa cũng như trình độ văn hóa mới mang đến sự kính trọng chứ không phải bằng cấp của người đó vì bằng cấp cao cỡ nào cũng có thể mua được còn cách cư xử văn hóa thì không thể dùng tiền để mua. Người ta có thể ngưỡng mộ bằng cấp của bạn nhất thời nhưng chính cách đối nhân xử thế của bạn mới khiến người khác tôn trọng bạn suốt đời. Người đời nể những người giỏi kiếm tiền một nhưng họ sẽ phục những người biết cách xài tiền một cách văn minh mười.
Đọc đến đây, chắc hẳn sẽ có nhiều bạn sẽ giật mình mà tự nhủ rằng: “Hóa ra từ trước tới giờ xã hội chúng ta đang sống nếu xét về trình độ văn hóa thì chắc chắn là rất thấp, và trong đó có cả mình!” Thật ra lỗi này không hẳn là lỗi của bạn. Theo những cuộc điều tra và thống kê về giáo dục trên thế giới, những nước thuộc nhóm “đang phát triển” thường cố tình đánh tráo hai khái niệm “biết đọc biết viết” với “trình độ văn hóa” vì mục tiêu của các nước này là phát triển kinh tế, những môn học trong chương trình giáo dục sẽ được thiết kế với mục đích cuối cùng là làm kinh tế, kiếm thật nhiều tiền. Khi các nước này chuyển sang giai đoạn “phát triển”, họ mới quan trọng trong việc giáo dục văn hóa theo đúng nghĩa của nó. Điều này không phải không có cái lý của nó vì con người cần nhất là phải thỏa mãn những nhu cầu về vật chất rồi mới có thể nói đến việc thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần, tình cảm và cao nhất là nhu cầu hoàn thiện bản thân. Điều này cũng không có gì khó hiểu, một ông bố phải quần quật lao động tay chân nặng nhọc mười mấy tiếng đồng hồ một ngày mà vẫn không lo đủ ăn cho gia đình thì ước muốn lớn nhất của ông là con cái mình di học để tìm được công việc nhẹ nhàng hơn và lương cao hơn. Đừng bảo ông bố ấy tại sao không biết dạy con viết thư pháp hay nghe nhạc thính phòng.
Khi giá trị của văn hóa bị hiểu sai hoặc đảo lộn, con người sẽ trở nên thực dụng, ích kỷ và tàn bạo và mọi giá trị đạo đức xã hội sẽ bị đảo lộn nghiêm trọng. Điều này thể hiện khá rõ trong xã hội của chúng ta thời hiện đại, một xã hội mất cân bằng về văn hóa vì khái niệm “văn hóa” bị lạm dụng một cách vô tội vạ. Vì vậy mới có những chuyện nực cười như trong những “khu phố văn hóa” lại có đầy đủ các tệ nạn xã hội như xì ke ma túy, đề đóm, cờ bạc hoặc mại dâm và trong những “gia đình văn hóa” lại có những người chồng, người cha vũ phu gia trưởng và vô tích sự. Nhiều tờ báo mạng có chuyên mục “văn hóa” nhưng bên trong chỉ toàn là những tin giật gân showbiz và những bài viết câu view câu like rẻ tiền. Đó chỉ là một trong số rất ít những ví dụ về việc đánh tráo khái niệm “văn hóa” mà trước giờ rất nhiều người ngộ nhận.
II. Làm cách nào để đánh giá chính xác trình độ văn hóa của một người?
Đánh giá trình độ học vấn của một người thì đơn giản, chỉ cần dựa vào điểm số, thứ hạng và xếp loại trên bằng cấp. Nhưng thật sai lầm nếu chúng ta vội vàng dựa vào những thứ ấy để kết luận rằng người đó có trình độ văn hóa cao hay thấp. Cũng có nhiều người đánh đồng trình độ văn hóa với mức thu nhập cá nhân hay nói một cách khác họ cho rằng người càng giàu thì càng biết cách cư xử tốt. Đây là một suy nghĩ khá thiển cận vì tiền không mua được văn hóa. Nó phản ánh tâm thức sùng bái vật chất của một bộ phận người trong xã hội. Trong đời sống hàng ngày chúng ta không khó để nhận ra những hành động thiếu văn hóa của những người được xem là có học thức, địa vị và tiền bạc. Nhiều người đi xe hơi đời mới thản nhiên kéo kính xe xuống để ném bọc nylon hay chai nước uống ra đường hay một bà vợ sếp lớn đứng chống nạnh xỉa xói nhà hàng xóm vì một mâu thuẫn nhỏ nhặt. Nhưng cũng có những người bán xôi khi đưa gói xôi cho bạn luôn kèm theo nụ cười và lời cảm ơn khiến bạn cảm thấy ấm lòng. Hay cậu bé đánh giày nhất quyết trả lại tiền thừa khi bạn muốn cho thêm. Rõ ràng văn hóa và địa vị hay tiền bạc không có sự liên quan nào với nhau cả.
Thật ra đánh giá trình độ văn hóa của một người không khó. Cái gọi là trình độ văn hóa được thể hiện qua cách ứng xử của người đó trong mọi tình huống hàng ngày cũng như trong cách họ thể hiện bản thân mình. Hay nói một cách khác, trình độ văn hóa của con người thể hiện rõ giá trị thực của người đó đối với cuộc sống. Nhìn vào cách một người thể hiện giá trị của bản thân, ta có thể hiểu được trình độ văn hóa của người đó. Trong tháp nhu cầu Maslow, tầng trên cùng tháp là nhu cầu được khẳng định giá trị bản thân mình. Quả vậy, một người dù giàu hay nghèo, sang hay hèn, có học hay vô học đều có những giá trị riêng của bản thân mình và mong muốn những giá trị đó được công nhận. Người có trình độ văn hóa thập thể hiện giá trị bản thân bằng vật chất như hàng hiệu đắt tiền, siêu xe, biệt thự, bằng cấp, chức vụ và các mối quan hệ xã hội. Người có trình độ văn hóa cao không dùng những “vật ngoài thân” để làm thước đo giá trị của mình. Họ thể hiện giá trị bản thân qua ba yếu tố: nguyên tắc sống, mục đích sống và thái độ sống.
1. Nguyên tắc sống: Một người hiểu rõ giá trị của bản thân mình sẽ có những nguyên tắc sống rõ ràng và nghiêm túc thực hiện những nguyên tắc đó ví dụ như ăn uống điều độ, thường xuyên rèn luyện sức khoẻ và nâng cao trí tuệ, không sa đà vào ăn chơi, cờ bạc rượu chè trai gái… Người có nguyên tắc sống đàng hoàng luôn tạo được ấn tượng tốt và niềm tin của người khác khi tiếp tục. Đó là cách để bước đầu xây dựng và khẳng định giá trị bản thân. Những người sống không có nguyên tắc, tuỳ tiện xô bồ thường không gây được lòng tin ở người khác và hay bị coi thường. Nguyên tắc sống của một người chính là LẬP TRƯỜNG của người đó. Lập trường càng vững thì giá trị càng cao.
2. Mục đích sống: Có rất nhiều bạn trẻ đặt ra mục đích sống là phải kiếm được thật nhiều tiền, bằng mọi giá phải làm giàu để hưởng thụ. Có người đặt ra mục tiêu phải thăng quan tiến chức, có địa vị vai vế trong xã hội để rạng rỡ tông môn. Có người nguyện sống cho một lý tưởng hoặc một đam mê nào đó mà không quan tâm đến vật chất tiền bạc. Có người nguyện dâng hiến cuộc đời cho một đức tin hay giúp đỡ người khác. Cũng có rất nhiều người từ lúc sinh ra cho tới lúc chết đi không biết mình có mặt trên đời để làm gì. Họ sống như một cái bóng mờ nhạt, mỗi ngày trôi qua vô vị và buồn tẻ. Ngoài những nhu cầu cơ bản, họ không có hoài bão và khát vọng cũng không có đam mê. Mục đích sống của một người có thể vị kỷ (vì bản thân) hay vị tha (vì kẻ khác) mà từ đó khẳng định giá trị của người đó. Những người biết cống hiến và sống vì người khác dĩ nhiên sẽ có giá trị cao hơn những người chỉ biết vun đắp cho bản thân hay không có mục đích sống cụ thể.
3. Thái độ sống: Cuối cùng giá trị bản thân của con người được thể hiện qua thái độ của người đó với cuộc sống. Có người luôn oán trách cuộc sống bất công với mình cũng có người biết ơn trân trọng những gì cuộc sống đem lại cho mình. Có người thờ ơ với nỗi đau của đồng bào và dân tộc miễn sao mình vẫn yên ấm nhưng cũng có người không chấp nhận những bất công xã hội mà phải lên tiếng đấu tranh bất chấp nguy hiểm. Có người luôn xem cuộc đời là một canh bạc lớn thích mạo hiểm và cũng có người chọn cách sống cẩn trọng an toàn. Có người đầy lòng trắc ẩn cũng có kẻ máu lạnh vô tình. Thái độ sống của một người phần nào phản ánh ĐẠO ĐỨC của người đó.
Tóm lại, giá trị của một người chính là LẬP TRƯỜNG, CỐNG HIẾN và ĐẠO ĐỨC sống của người đó chứ không phải của cải vật chất địa vị hay quyền lực. Muốn nâng cao giá trị bản thân, hãy sống có lập trường kiên định, nguyên tắc rõ ràng, tu dưỡng đạo đức và cống hiến cho xã hội. Đó mới là biểu hiện của một người có văn hóa thật sự.