Share on facebook

Chương 1: From hero to zero

Có thể bạn quan tâm

Ngày 12 tháng 8 năm 2001 tôi chính thức đặt chân đến nước Mỹ, bắt đầu cuộc sống du học xa xứ của mình. Ai cũng nghĩ du học là sung sướng, nhất là ở thời những năm 2000 nhưng trên thực tế những năm du học của tôi là những năm vô cùng sóng gió gần như từ ngày tôi đặt chân sang nước Mỹ cho tới ngày tôi tốt nghiệp trở về nước. Nhiều lúc nghĩ lại quãng đời ấy, tôi lại liên tưởng đến chuyến hải hành đầy gian nan trở về quê hương của người hùng thành Troy Odysseus. Cũng như Odysseus lúc đầu khi đến thành Troy, tôi đến nước Mỹ với suy nghĩ cực kỳ đơn giản là cố gắng học cho tốt để có thể tốt nghiệp sớm, trước là để không làm gánh nặng cho cô tôi ở Mỹ, người đã hứa với ba mẹ sẽ tài trợ cho tôi trong suốt quá trình học ở Mỹ, sau là để nhanh chóng trở về Việt Nam để tiếp tục những gì mà tôi quyết tâm bỏ dở mà sang Mỹ học. Nhưng trời không chiều lòng người, những năm tháng học hành ở Mỹ của tôi gặp phải vô số thử thách từ trên trời rơi xuống mà nặng nhất là cơn bão Katrina lịch sử năm 2005 khiến tôi bị trễ gần một năm học mãi đến tháng 5 năm 2007 mới có thể tốt nghiệp được. Từ năm 1999 tôi tốt nghiệp trung học cho tới năm 2007 tôi lấy được cái bằng đại học là một quãng đường 8 năm trời dài đằng đẵng, gấp đôi thời gian một sinh viên bình thường tốt nghiệp ra trường.

Nói đến chuyện học hành thì số tôi có rất nhiều chuyện lận đận khó tin mặc từ lúc còn nhỏ dù tôi không hề học dở, từ nhỏ tới lớn đều là học sinh các lớp chuyên. Năm lớp 5, vì chuyện gia đình mà tôi lỡ kỳ thi tốt nghiệp tiểu học chính thức nên phải thi lại đợt hai cùng với những học sinh rớt đợt 1. Vào lớp 6 chưa đầy 1 tháng, ba mẹ tôi lại phát sinh mâu thuẫn và cũng chính vì chuyện đó mà việc học của tôi suýt nữa lại dang dở. Năm 1999, tôi tốt nghiệp trung học nhưng phải trải qua hai trường đại học ở Việt Nam đến năm 2001 mới sang Mỹ du học. Như vậy, ngay khi tôi tốt nghiệp ở Mỹ một cách thuận lợi suôn sẻ thì tôi vẫn ra trường muộn hơn bạn bè cùng lứa đến 2 năm.

Trường đại học đầu tiên tôi học sau khi hết bậc phổ thông là Học Viện Ngân Hàng, ngành tín dụng ngân hàng. Tôi thi ngành này theo ý nguyện hay nói trắng ra là sự ép buộc của mẹ tôi chứ bản thân tôi thì không có một chút cảm tình hay hứng thú gì đối với ngành ngân hàng cả. Nguyên một năm học ở trường Ngân Hàng, tôi chỉ có mặt ở trường để điểm danh, còn lại thì chơi là chính. Kết quả của một năm học ở Học Viện Ngân Hàng là tôi chỉ đậu mỗi môn Anh Văn, vốn là môn tủ của tôi ở học kỳ 2, còn lại các môn khác một là bỏ thi, hai là điểm thi dưới trung bình. Nhưng chuyện đó không ảnh hưởng lớn tới tôi lắm vì trong suốt một năm đó, tôi ở nhà tự ôn thi vào khoa Đông Phương học của trường Đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn, ngôi trường mơ ước của tôi. Kết quả là kỳ thi tuyển sinh năm 2000, tôi trúng tuyển vào khoa Đông Phương Học bằng tư cách thí sinh tự do với tổng số điểm 3 môn là 21.5 điểm, hơn điểm chuẩn 3 điểm. Với số điểm đó, tôi dễ dàng đăng ký học ngành Nhật Bản học, ngành đòi hỏi điểm đầu vào cao nhất của khoa. Và thế là năm học 2000, tôi bỏ lại một năm học tại Học Viện Ngân Hàng không tiếc nuối và hăm hở theo đuổi ước mơ của mình ở đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn.

Năm học 2000-2001 là khoảng thời gian đẹp nhất của tôi vì mọi chuyện đều thuận lợi hơn cả sức tưởng tượng. Ở tuổi 19, tôi tự hào vì mình làm được những điều mà không phải ai ở tuổi đó cũng làm được. Đầu tiên, trong năm đó, việc tôi được bầu làm phó chủ nhiệm của câu lạc bộ tiếng Anh của Nhà Văn Hóa Thanh Niên, CLB tiếng Anh nổi tiếng nhất thành phố đã khiến tôi trở thành một “celebrity” (người nổi tiếng) ngay từ ngày đầu đặt chân vào trường Đại Học Nhận Văn. Ngày đó, sinh viên trường Nhân Văn sang sinh hoạt tại câu lạc bộ tiếng Anh ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên rất đông nên rất nhiều sinh viên đàn anh đàn chị đều nhận ra tôi chào hỏi tay bắt mặt mừng khiến cho các bạn học cùng lớp hết sức ngưỡng mộ. Tiếp theo, nhóm nhạc rock Wickends của tôi tuy còn non trẻ nhưng cũng đã xuất hiện trong khá nhiều show diễn ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên, Nhà Văn Hóa Lao Động và Đại Học Bách Khoa. Những năm cuối thập niên 199x, phong trào sinh viên chơi rock ở Sài Gòn khá rầm rộ nên việc là ca sĩ của một nhóm nhạc rock dù là nghiệp dư vẫn là một điểm cộng tuyệt đối.

Với những điều kiện như vậy, chuyện có người yêu là hot girl của ngành Nhật Bản học cũng là điều hết sức dễ hiểu. Lúc còn học ở Học Viện Ngân Hàng, tôi cũng có vài mối tình vớ vẩn nhưng chỉ dừng lại ở chỗ hẹn hò đi chơi, xem phim, hay karaoke chứ không có gì nghiêm túc vì tôi không có dự định bám trụ ở đó. Tới khi qua Nhân Văn thì tôi và T., cô bạn hot girl cùng lớp, yêu nhau điên cuồng dữ dội với tất cả sự bồng bột của tuổi đôi mươi mặc cho mẹ tôi nghiêm cấm chuyện “có bồ” khi học đại học. Có lần hai đứa tôi vừa ôm vừa hôn nhau từ trong lớp đi ra tới cổng trường bất chấp bao nhiêu đôi mắt dòm ngó của các sinh viên lẫn giảng viên của trường. Hai mươi mấy năm trước, chuyện yêu đương của sinh viên “hiền lành” và “kín đáo” hơn các bạn trẻ bây giờ rất nhiều, vì thế, sự kiện “hôn nhau từ lớp ra tới cổng” nhanh chóng lan truyền khắp các trường đại học trong thành phố đến mức bạn bè hồi cấp ba của tôi học ở những trường khác đều biết mà không cần đến mạng xã hội như ngày nay. Tuy đa mang như vậy, tôi vẫn học rất giỏi chứ không bê bối như hồi học bên Ngân Hàng. Hết năm nhất ở Nhân Văn, điểm trung bình của tôi vẫn nằm trong top 5 của lớp Nhật 1.

Nếu mọi chuyện cứ thế mà diễn ra thì có thể nói tôi đã có một thời sinh viên hết sức đáng mơ ước và cũng chẳng cần phải đi Mỹ làm gì. Nhưng đầu năm 2001, cô Lang, chị ruột của ba tôi ở Mỹ, ngỏ ý muốn bảo lãnh tôi qua Mỹ học và hứa sẽ tài trợ toàn bộ chi phí học hành cho tới ngày tôi tốt nghiệp. Cô còn có ý giao lại nhà hàng Chinese Chef của cô cho tôi quản lý sau này. Ai nghe những điều này đều cho rằng tôi hết sức may mắn, nhưng tôi thì tôi biết nguyên nhân sâu xa của việc cô bảo lãnh tôi đi học là gì. Nếu tôi chấp nhận lời đề nghị của cô thì đổi lại tôi sẽ ký vào tờ giấy không tranh chấp căn nhà từ đường của ông nội ở Nguyễn Chí Thanh để ba tôi có toàn quyền sử dụng căn nhà đó. Ba mẹ tôi ly hôn từ khi tôi chỉ mới 10 tuổi và lúc đó ba tôi chưa lập gia đình với người vợ sau nên ông có viết di chúc để quyền thừa kế căn nhà cho tôi. Nhưng sau này ông có vợ và có hai người con với vợ sau nên ông muốn lấy lại quyền thừa kế căn nhà từ tôi. Việc cho tôi đi du học nói đúng ra là một cuộc trao đổi về quyền lợi của những người lớn chứ hoàn toàn không phải là ý nguyện của tôi.

Khi biết chuyện, tôi suy nghĩ rất nhiều. Nếu đi, tôi coi như phải bỏ hết tất cả những gì tôi hiện có, kể cả mối tình đầu vô cùng nồng thắm, để đi đến một đất nước xa lạ và sống với một người cô từ nhỏ đến lớn tôi chỉ mới gặp có một lần. Tiếng Anh tôi tuy so với bạn bè cùng lứa có giỏi hơn nhưng học nguyên một chương trình đại học bằng tiếng Anh lại là một chuyện hoàn toàn khác. Hơn nữa nếu tôi đi Mỹ thì coi như tôi bỏ mất hết ba năm chỉ để học lại năm nhất đại học ở ba trường khác nhau trong khi bạn bè cùng tuổi tôi tới thời điểm đó đều lên năm 3, chỉ còn một năm nữa là ra trường. Nếu ở lại Việt Nam tiếp tục học ở Nhân văn, mọi việc của tôi có vẻ sẽ tốt đẹp ngoại trừ việc ba tôi sẽ liên tục gây sức ép về việc hủy bỏ quyền thừa kế đối với nhà nội. Thật lòng mà nói, tôi không hề có ý định tranh chấp căn nhà đó với ba tôi nhưng người không muốn buông là mẹ tôi. Với lý do tôi là cháu đích tôn của dòng họ nội, mẹ tôi nhất quyết không cho tôi trả lại quyền thừa kế cho ba tôi nên giữa ba mẹ tôi luôn nổ ra những cuộc tranh chấp long trời lở đất mà tôi là nạn nhân bất đắc dĩ. Tại thời điểm đó, ba mẹ tôi đã ly hôn được hơn 10 năm và đều đã có gia đình riêng. Nhưng mỗi lần gặp nhau của họ đều là những trận chiến hết sức tồi tệ. Đó là lý do lớn nhất mà tôi muốn đi ra nước ngoài để thoát khỏi cơn ác mộng đã ám ảnh tôi từ bé tới lớn. Một lý do khác mà tôi muốn ra nước ngoài là vì tôi muốn theo đuổi ngành hòa âm phối khí, một ước mơ khác của tôi mà ở Việt Nam tôi biết rằng chắc chắn sẽ không bao giờ được ủng hộ.

Ba mẹ tôi đều muốn tôi qua Mỹ học một ngành kinh tế nào đó và tốt hơn hết là ở lại bên đó để tiếp quản nhà hàng của cô tôi nên ý tưởng học ngành hòa âm phối khí của tôi bị phản đối kịch liệt. Ngược lại, tôi cũng phản đối kịch liệt chuyện đi học kinh tế và tiếp quản nhà hàng ở Mỹ. Tôi biết mình không có hứng thú với ngành kinh doanh mà có khiếu về âm nhạc và ngôn ngữ, những thứ đối với ba mẹ tôi không có giá trị gì vì không kiếm được tiền. Còn tôi, nếu phải bỏ tất cả những gì tôi đang có ở hiện tại để bắt đầu lại từ đầu bằng một ngành tôi không hề có hứng thú, tôi thà ở lại Việt Nam. Sau nhiều lần đấu tranh về tâm lý, giải pháp cuối cùng đưa ra là tôi sẽ qua Mỹ học ngành giảng dạy tiếng Anh để sau này mở trung tâm dạy ngoại ngữ. Sài Gòn đầu những năm 2000 là thiên đường của các trung tâm tiếng Anh vì nhu cầu học tiếng Anh của người Sài Gòn thời mở cửa rất cao.

Mẹ tôi ủng hộ ý tưởng này vì tôi vốn giỏi tiếng Anh từ nhỏ và bên ngoại tôi cũng có truyền thống dạy học nhưng ba tôi thì không hề ủng hộ. Ông cho rằng việc tốn một số tiền lớn sang Mỹ học để trở thành một “thằng thầy giáo quèn” là một sự phí phạm ngu ngốc, là phá tiền của cô tôi ở bên Mỹ. Nhưng có lẽ để giải quyết việc chuyển nhượng tài sản nhanh chóng, ông cuối cùng cũng đồng ý với hy vọng qua bên Mỹ tôi sẽ bỏ ý định học ngành sư phạm mà chọn kinh doanh. Thật ra đối với ba tôi, việc tôi có học được đại học bên Mỹ hay không không quan trọng bằng việc tôi chịu ở lại bên đó để quản lý nhà hàng cho cô tôi.

Người Anh có câu thành ngữ “from zero to hero” để chỉ những người từ không có gì cả nhờ một vận may nào đó mà trở nên nổi tiếng hoặc thành đạt. Tôi thì ngược lại, bỏ lại hết tất cả những gì mình có để dấn thân vào một con đường mới bắt đầu lại từ đầu từ con số không, “from hero to zero”. Chỉ là lúc đó tôi không nghĩ con đường trước mắt còn gian nan hơn mình hình dung rất nhiều.

BHV English IELTS Team

Tags

Có thể bạn quan tâm