Share on facebook

Chương 15: Trẻ thông minh sướng hay khổ (P1)

Có thể bạn quan tâm

Đã làm cha làm mẹ, ai mà không mong muốn con cái mình lớn lên khỏe mạnh và thông minh. Một đứa trẻ thông minh lanh lợi luôn được những người thân đặc biệt là ông bà và cha mẹ yêu quý như vàng như ngọc. Và gần như mặc định, xã hội chúng ta luôn cho rằng những người thông minh thì thế nào cũng sẽ thành công và hạnh phúc trong cuộc sống. Nhưng có nhiều sự thật về trí thông minh cũng như cuộc đời của một người được xem là thông minh mà phần lớn mọi người chưa thực sự hiểu hết.

I. Định nghĩa “truyền thống” về trí thông minh và chỉ số IQ.

“Thông minh” là một từ ghép Hán Việt với hàm ý “tai nghe rõ” (thông) và “mắt nhìn tỏ” (minh). Như vậy nếu xét theo nghĩa gốc thì “thông minh” có nghĩa là các giác quan sắc bén nhanh nhạy trong việc tiếp nhận và xử lý thông tin: mắt nhìn qua là thấy rõ, tai nghe qua là đã hiểu. Trong nền giáo dục phong kiến mang nặng truyền thống học thuộc lòng những gì thầy dạy của Nho giáo, một người được ngợi ca là thông minh là người có trí nhớ tốt, đọc đâu nhớ đấy, đọc qua một lần là có thể thuộc làu làu từ đầu tới cuối và giỏi trong việc nhớ các điển xưa tích cũ hoặc dùng chữ để đối lại trong việc làm thơ ngâm vịnh hoặc làm câu đối. Tuy nhiên nếu xét thông minh dựa trên việc thuộc lòng nhiều và giỏi việc dùng chữ lắt léo để bắt bẻ người khác thì khá là phiến diện.

Trước khi tâm lý học phát triển, phương Tây cũng có cách đánh giá trí thông minh khá đơn giản dựa trên các khả năng tiếp nhận thông tin (khả năng tiếp thu), ghi nhớ thông tin (trí nhớ) và xử lý thông tin (giải quyết vấn đề như thế nào). Những người được xem là thông minh thường sẽ có những đặc điểm chung như sau:
a. Có khả năng tiếp nhận và phân tích thông tin nhanh chóng và nhạy bén.
b. Có khả năng nhớ nhiều và nhớ lâu.
c. Có khả năng dùng những thông tin lưu trữ để giải quyết những vấn đề phức tạp.
d. Có khả năng kết hợp nhiều thông tin để tạo ra cái mới.
Chính vì thế, những đứa trẻ có trí nhớ kém, chậm biết đọc hoặc không làm tốt các phép tính cộng trừ nhân chia đều được xem là kém thông minh hơn những đứa trẻ khác.

Để đánh giá trí thông minh của một người, những nhà tâm lý học sử dụng bài kiểm tra chỉ số thông minh (Intelligence Quotient Test-IQ Test) gồm những câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra tư duy logic toán học và ngôn ngữ của người đó. Tiêu chí đánh giá trí thông minh theo IQ có thể mô tả đơn giản như sau: một người được xem là có trí thông minh bình thường khi IQ của họ là 100 với biên độ dao động 15 (có nghĩa là những người có IQ từ 85 đến 115 cũng được xếp vào nhóm những người có trí thông minh bình thường). Nếu IQ dưới 85 thì được xem là trí thông minh thấp và trên 115 được xem là trí thông minh cao. Chỉ số thông minh của một người có thể cải thiện hoặc bị giảm sút dưới tác động của những điều kiện khách quan bên ngoài. Ví dụ một người có thể qua những bài tập rèn luyện tư duy để giúp mình tăng IQ và ngược lại cũng có thể khiến IQ mình bị giảm sút nếu không tiếp tục học hỏi hoặc lạm dụng các chất gây tổn hại đến hoạt động của não (thuốc men, rượu, ma túy…)

Tỉ lệ chỉ số IQ trên thế giới dựa trên thống kê năm 2010 như sau:
a. Những người có IQ dưới 85 (IQ thấp) chiếm khoảng 14% dân số thế giới. Đây là những người được xem là kém thông minh, chậm tiếp thu.
b. Những người có IQ từ 85-115 (IQ trung bình) chiếm khoảng 68% dân số thế giới. Đây là nhóm người có trí thông minh bình thường.
c. Những người có IQ trong khoảng 116-130 (IQ cao) chiếm khoảng 14% dân số. Đây là những người được xem là thông minh.
d. Những người có IQ từ 130-145 (IQ rất cao) chiếm khoảng 2% dân số. Đây là nhóm người cực kỳ thông minh.
e. Những người có IQ vượt quá 145 (IQ siêu cấp) chỉ chiếm 0.001% dân số thế giới. Đây là những người được xem là thiên tài.

Những bài test chỉ số IQ trong một thời gian dài được xem như thước đo chuẩn mực để đánh giá trí thông minh của một người được đại đa số tin tưởng. Tuy nhiên từ thập niên 1990 trở đi một số nhà tâm lý học đã đánh giá các bài test này là phiến diện và không chính xác vì chúng bỏ sót quá nhiều khía cạnh tư duy và năng khiếu mà chỉ chú trọng vào hai phạm trù tư duy toán học logic và tư duy ngôn ngữ, hai loại tư duy vốn được mặc định là trí thông minh truyền thống của một người. Đồng thời từ thập niên 1980, các nhà khoa học phương Tây đã nỗ lực nghiên cứu nhiều khía cạnh hoạt động của não bộ trên các phương diện xử lý thông tin khác nhau để đưa ra một bảng phân loại đa dạng và chính xác hơn cho trí thông minh để thay thế chỉ số IQ.

II. Có bao nhiêu loại trí thông minh khác nhau?

Từ năm 1983 trở đi, khái niệm “các dạng trí thông minh” dần dần được công nhận và cạnh tranh với khái niệm “chỉ số thông minh IQ” truyền thống. Theo các nghiên cứu khoa học, con người có thể có 1 hoặc nhiều hơn các dạng trí thông minh sau đây:

1. Trí thông minh thiên nhiên (naturalist): đây là khả năng cảm nhận và thích nghi với thiên nhiên nhạy bén. Người có loại trí thông minh này rất nhạy trong việc nhận biết và phân biệt các loài động thực vật và các hiện tượng tự nhiên như có thể dự đoán được mưa bão, động đất, núi lửa phun. Người sở hữu loại trí thông minh này thích hợp với những nghề như thợ săn, người đi rừng, nông dân, ngư dân, kiểm lâm, nhà động vật học hoặc bác sĩ thú y.

2. Trí thông minh âm nhạc (musical): là sự nhạy cảm trong việc cảm thụ giai điệu, tiết tấu, cao độ, trường độ và những đặc trưng về mặt âm học do các loại nhạc cụ khác nhau tạo nên. Ở mức độ thấp, những người có trí thông minh âm nhạc là những người được xem là có cảm thụ âm nhạc tốt, có gu trong việc nghe nhạc và dễ học chơi một loại nhạc cụ nào đó. Ở mức độ cao hơn, họ là những người có khả năng diễn tấu hoặc sáng tác âm nhạc hoặc phê bình âm nhạc.

3. Trí thông minh logic/toán học (mathematical/logical): là khả năng tính toán nhanh nhạy cũng như giải quyết những vấn đề mang tính logic cao. Đây là những người học giỏi những môn khoa học tự nhiên như toán, lý, hóa hoặc những môn đòi hỏi tính suy luận. Họ thích hợp để trở thành nhà toán học, nhà khoa học, nhân viên tài chính kế toán hoặc thám tử điều tra.

4. Trí thông minh tư duy triết học (existential/philosophical): Đây là dạng trí thông minh của những nhà triết học, tư tưởng học, tôn giáo và tâm lý học với những vấn đề liên quan đến sự hiện hữu và tồn tại của con người, ý nghĩa của sự sống, con người trước khi sinh ra ở đâu và sau khi chết sẽ đi về đâu. Họ là những người khởi xướng và phát huy những chủ nghĩa và học thuyết để định hướng xã hội cũng như những quy chuẩn đạo đức của con người.

5. Trí thông minh đối nhân xử thế (interpersonal): Người sở hữu loại trí thông minh này rất nhạy cảm với các mối quan hệ giữa người với người hay nói một cách khác, họ là những người hiểu được tâm lý của người khác. Họ biết cách cư xử như thế nào để không mất lòng người khác, tránh xung đột va chạm và có khả năng hóa giải những xung đột cá nhân một cách hiệu quả. Ở một mức độ cao hơn, họ có thể điều khiển tâm lý và hành vi của người khác theo ý của mình hoặc dùng ý chí của mình khuất phục người khác. Ngành nghề thích hợp cho họ là nhà tâm lý học hoặc nhà ngoại giao hoặc nhân viên tiếp thị.

6. Trí thông minh thể chất (bodily/kinesthetic): Đây là loại trí thông minh của những người có năng khiếu thể dục thể thao, võ thuật, khiêu vũ và biểu diễn. Nghề nghiệp thích hợp của họ là vận động viên, huấn luyện viên thể dục, võ sĩ, nghệ sĩ múa hoặc diễn viên sân khấu, điện ảnh.

7. Trí thông minh ngôn ngữ (linguistic): Đây là loại trí thông minh nhạy bén đối với các vấn đề về ngôn ngữ: phát âm, từ vựng, cấu trúc ngữ pháp, vần điệu…Những người sở hữu loại trí thông minh này học chữ rất nhanh, khả năng đọc hiểu và ghi nhớ tốt và có năng khiếu về ngoại ngữ. Nghề nghiệp thích hợp của họ là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà ngôn ngữ học, diễn thuyết, dịch thuật…

8. Trí thông minh nội tâm (intrapersonal): Loại trí thông minh này giúp người sở hữu nó điểu khiển và chế ngự cảm xúc nội tại theo ý muốn của mình. Họ biết cách kiềm chế cảm xúc không bộc lộ ra những trạng thái quá mức như giận dữ, phấn khích, kích động. Họ cũng là những người biết cách giải quyết những mâu thuẫn nội tâm không để chúng trở nên nghiêm trọng và ảnh hưởng đến lý trí cũng như người khác. Họ có một ý chí mãnh liệt và khả năng tự tạo động lực cho mình để đạt được mục đích mong muốn. Nghề nghiệp thích hợp với họ là chuyên viên tâm lý, nhà tư tưởng hoặc lãnh tụ tôn giáo.

9. Trí thông minh định vị hình học (spatial): Đây là loại trí thông minh liên quan tới việc định vị trên cơ sở hình học không gian hai chiều và ba chiều. Người sở hữu loại trí thông minh này có khả năng xác định phương hướng cũng như ước tính đoạn đường xa gần khá chính xác. Họ cũng có thể là những người có khiếu thẩm mỹ cao. Nghề nghiệp thích hợp với họ là kiến trúc sư, thiết kế nội thất, hoa tiêu, thủy thủ, phi công, họa sĩ, nhà điêu khắc…

10. Gần đây có những ý kiến bổ sung thêm hai loại thông minh nữa là trí thông minh vị giác và trí thông minh khứu giác tức là những người có vị giác tinh tế, có gu ẩm thực. Họ là những chuyên gia ẩm thực, đầu bếp, người thử rượu…

Một người có thể có ít nhất là một dạng trí thông minh cũng có thể sở hữu từ hai dạng trí thông minh kể trên trở lên. Các cấp bậc của các loại trí thông minh này được sắp xếp từ thấp lên cao bao gồm bốn bậc: a. có sở thích, b. có năng khiếu, c. có tài năng và d. thiên tài. Sự thật này khiến cho việc đánh giá trí thông minh của một người theo kiểu truyền thống không còn giá trị vì một đứa trẻ không có trí thông minh toán học logic có thể rất yếu kém trong việc tính toán nhưng lại có thể là một nhà soạn nhạc kiệt xuất trong tương lai hoặc là một nhà tâm lý học giỏi khi nó sở hữu các dạng trí thông minh âm nhạc hoặc trí thông minh đối nhân xử thế cao.

Việc phân loại trí thông minh theo hướng hiện đại đã giúp cho rất nhiều phụ huynh hiểu rõ hơn về thiên hướng năng khiếu của con em mình để định hướng nghề nghiệp cho con mình từ bé cũng như không tùy tiện xem con mình là ngu dốt hay vô dụng nếu nó không giỏi được một môn học mũi nhọn nào đó theo định hướng chung của xã hội. (còn tiếp)

BHV English IELTS Team

Tags

Có thể bạn quan tâm