Share on facebook

Chương 4: Tại sao tôi chọn ngành English Education?

Có thể bạn quan tâm

Khi học ở Mỹ, tôi chọn ngành sư phạm tiếng Anh vốn không liên quan tới hai ngành học trước của tôi ở Việt Nam vì nhiều lý do: Tôi bắt đầu học tiếng Anh từ năm 4 tuổi đến lớn và luôn học trong các lớp chuyên Anh thời phổ thông. Đến lớp 11, tôi bắt đầu làm việc trong câu lạc bộ tiếng Anh của Nhà Văn Hóa Thanh Niên nên tiếng Anh hiển nhiên luôn là thế mạnh của tôi. Còn sư phạm là truyền thống gia đình bên ngoại tôi. Lý do thứ hai là vì trong thời gian học để thi lấy bằng TOEFL bổ sung hồ sơ đi Mỹ (năm 2000 vẫn chưa có IELTS), tôi cảm thấy những trung tâm dạy tiếng Anh mà tôi theo học không đáp ứng được nhu cầu học hỏi của tôi. Một tuần ba buổi học gồm 2 buổi với giáo viên người Việt và 1 giáo viên nước ngoài thì phần lớn các giáo viên người Việt thì có khuynh hướng dạy câu giờ và thường không trả lời được những câu hỏi về văn hóa Anh Mỹ còn giáo viên nước ngoài thì cũng còn tùy: có người có trình độ tốt và sẵn sàng trả lời những câu hỏi của học viên, có người cũng chỉ là Tây ba lô vào dạy hết sức vô trách nhiệm. Chính vì vậy trình độ của người học cũng không xứng đáng so với số tiền học mà họ phải đóng. Người học giỏi thì sẽ cảm thấy chán vì các trung tâm dạy quá chậm, còn người yếu tiếng Anh vào học hết khóa này tới khóa khác trình độ cũng chẳng thay đổi được bao nhiêu. Tôi muốn học tiếng Anh ở Mỹ để về dạy tiếng Anh một cách đàng hoàng tử tế, giúp được cho người học có kiến thức nền vững chắc và có thể tự học. Cuối cùng, trong thâm tâm, tôi chọn ngành dạy tiếng Anh để học vì tôi muốn có thời gian để dành cho đam mê âm nhạc của mình như một nghề tay trái bên cạnh nghề tay phải là đi dạy. Dù sao phải vững về kinh tế, nuôi sống được bản thân thì mới dám nghĩ tới chuyện theo đuổi đam mê.

Thú thật là khi nhập học rồi thì tôi vẫn khá lơ tơ mơ rằng chuyên ngành mình học sẽ học những môn gì mà chỉ đại khái đoán rằng sẽ có một số lớp tiếng Anh và một số lớp về kỹ năng sư phạm đứng lớp. Trong đầu tôi lúc đó vẽ ra một “viễn cảnh” khá lý tưởng là nếu năm nào cũng học lên lớp đều đều và hè học thêm mấy lớp hè nữa thì chương trình học sẽ rút ngắn lại còn khoảng 3 năm là xong. Lúc đó tôi sẽ tốt nghiệp, về Việt Nam, đi dạy, kết hôn với người yêu và tiếp tục theo đuổi những điều tôi đang bỏ dở ở Việt Nam khi qua Mỹ. Ai ngờ trời không chiều lòng người, 3 năm “ảo tưởng” của tôi trên thực tế biến thành 6 năm bão táp ngoài sức tưởng tượng.

Ngày đầu tiên nhập học, tôi nhận được cuốn sổ tay hướng dẫn trong đó có ghi rõ những môn cần đăng ký của ngành học của mình trong suốt bốn năm học. Ở NSU, sinh viên được tự chọn đăng ký các lớp học của mình tùy theo trình độ và thời gian rảnh nhưng đối với du học sinh, quy định của trường bắt buộc phải đăng ký ít nhất phải đăng ký 4 lớp một học kỳ để lấy đủ 12 tín chỉ (credit) thì mới được xem là một học sinh chính thức (full time student) và đủ điều kiện học tiếp học kỳ sau. Nếu không thì du học sinh đó sẽ bị trục xuất khỏi Mỹ. Quy định này được đặt ra nhằm hạn chế việc du học sinh châu Á trong thời gian học ở Mỹ đi tìm việc làm thêm và bỏ học sau đó tìm cách nhập cư trái phép vào Mỹ. Bốn lớp một tuần không phải là quá bận rộn vì thế, bạn vẫn có thể đăng ký những lớp khác nếu còn sức học. Một học sinh có thể học tối đa là 7 lớp, tương đương với 21 tín chỉ. Trong quá trình học nếu cảm thấy quá nặng thì có thể bỏ bớt vài tín chỉ trước ngày thi midterm miễn sao vẫn còn giữ được 4 lớp. Nếu bạn phân vân không biết phải giữ lớp nào và bỏ lớp nào, bạn có thể tìm đến academic advisor của mình để xin ý kiến và chữ ký để ngưng lớp.

Tất cả các tân sinh viên năm nhất ở trường tôi đều được nhà trường tổ chức một buổi “campus tour” để giới thiệu khuôn viên trường và làm quen với các academic supervisor của mình. Không biết các trường khác ở Mỹ thì sao chứ ở NSU thì các giảng viên sẽ được gọi bằng “doctor” kèm theo họ chứ không gọi là “professor”. Mỗi “doctor” ngoài việc giảng dạy và nghiên cứu còn chịu trách nhiệm làm “academic advisor” cho vài trăm sinh viên thuộc chuyên ngành của mình. Không như như các thầy cô trong phòng giáo vụ ở đại học Việt Nam luôn có thái độ kẻ cả bề trên khi tiếp xúc với sinh viên, các academic advisor ở Mỹ là người rất sẵn sàng giúp đỡ sinh viên của mình bất cứ điều gì liên quan tới chuyện học từ việc đăng ký chọn những lớp thích hợp để có thể rút ngắn thời gian học, đăng ký những lớp học hè cho tới việc xin học bổng. Advisor của tôi là cô Pauline Rodriguez, người ngay cái nhìn đầu tiên đã khiến tôi không được cảm tình cho lắm vì sự khó tính và lạnh lùng như “người sắt” của cô. Khi còn học đại học ở Việt Nam, thái độ “khệnh khạng” của các vị trưởng khoa trường đại học khiến tôi bị ác cảm nên khi sang Mỹ, tôi mang ánh mắt ác cảm đó để nhìn “academic advisor” của mình trong thời gian đầu và tránh bà hơn tránh tà. Đó là một sai lầm nghiêm trọng mà tôi đã mắc phải trong đời sinh viên của mình khi không thông qua academic advisor của mình để chọn hoặc bỏ một số lớp khiến việc tốt nghiệp của tôi bị kéo dài dự định. Tới khi gần như lâm vào đường cùng tôi mới tìm tới bà nhờ giải quyết hướng dẫn lại việc đăng ký lớp năm cuối và chỉ sau một buổi làm việc, cô Pauline đã sắp xếp đâu vào đấy, cứu tôi nhiều bàn thua trông thấy. Vì thế sau này đối với tất cả các học viên của tôi hễ ai chuẩn bị đi du học mà cần lời khuyên của tôi thì điều đầu tiên tôi bắt các bạn đó phải ghi nhớ là “nếu gặp khó khăn thì lập tức tìm academic advisor của bạn trước khi bạn càng làm càng sai”.

Năm học đầu tiên của tôi ở NSU trôi qua khá dễ dàng vì các môn đại cương (general subjects) dành cho học sinh năm nhất khá dễ dàng. Ngoài những môn học bắt buộc, tôi còn có thời gian đăng ký học thêm lớp piano, nhạc cụ mà tôi có mơ cũng không nghĩ mình có cơ hội học ở Việt Nam. Tất cả tôi đều vượt qua một cách dễ dàng với điểm thấp nhất là B. Môn khiến tôi sợ nhất ở Việt Nam là môn toán, vậy mà qua bên này tôi cũng vượt qua lớp toán một cách dễ dàng mặc dù không thường xuyên lên lớp để học mà chỉ xuất hiện ở những buổi ôn tập trước ngày kiểm tra và ngày thi. Chính điều này đã khiến tôi sinh ra ảo tưởng sức mạnh về bản thân mình và mất cảnh giác và trả giá khá đắt ở năm tiếp theo.

Năm thứ hai là năm bắt đầu tôi học những môn chuyên ngành tiếng Anh cực khó. Có ai ngờ những lớp tiếng Anh đại cương dễ như ăn chè ở năm nhất chủ yếu dạy lại ngữ pháp và cách viết luận văn và những lớp Anh văn chuyên ngành lại có sự khác biệt về trình độ một trời một vực như vậy. Học ngành sư phạm Anh, tôi phải lấy hết tất cả các lớp English chuyên ngành trong năm 2 và năm 3 gồm lớp tiếng Anh trung đại với các tác phẩm cổ điển như Beowulf, Canterbury Tales, Divine Comedy, lớp văn học Anh cận đại với thơ Shakespeare, Robert Burns, Walter Scott, lớp riêng về kịch Shakespeare rồi đến văn học cận đại Mỹ với Henry David Thoreau, Nathaniel Hawthorne, Ralph Waldo Emerson… và văn học hiện đại Mỹ như Walt Whitman, Ernest Hemingway, O’Henry… Bạn cứ tưởng tượng một sinh viên nước ngoài cho dù nói và viết tiếng Việt lưu loát tới mức nào mà phải học văn học Việt Nam từ thời cổ đại tới hiện đại, phải đọc các tác phẩm như Hịch Tướng Sĩ, Bình Ngô Đại Cáo rồi Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm và viết luận phân tích sẽ khốn khổ chật vật thế nào thì sẽ hiểu được tôi đã phải “chiến đấu điên cuồng” như thế nào để có thể vượt qua những lớp tiếng Anh đó. Nói thật một câu là để qua được một lớp đã là may mắn lắm rồi chứ đừng nói là dám đòi hỏi điểm A điểm B này nọ. Thú thật là tới bây giờ tôi cũng không nhớ là bằng cách nào tôi lại có thể qua được những lớp tiếng Anh chuyên ngành kinh khủng đó. Đến lúc đó tôi mới thấm câu nói mà cô Pauline Rodriguez đã dành cho tôi ngày đầu tiên tôi trình diện bà: “Bỏ đi, cậu học không nổi đâu!” Lúc đó tôi chỉ thấy cực kỳ ác cảm vì nghĩ bà coi thường sinh viên Việt Nam. Tuy nhiên, mỗi lần nghĩ đến việc gặp bà để hỏi ý kiến chuyển ngành học, lòng tự ái dân tộc tôi lại trỗi lên mạnh mẽ nên lại thôi. Cũng may là tôi qua được hết.

Các lớp kỹ năng sư phạm mà tôi bắt đầu học từ cuối năm thứ 2 cho đến năm 4 thì thật sự rất thú vị và giúp tôi thay đổi rất nhiều về tư duy giáo dục. Nhà ngoại tôi tuy có truyền thống sư phạm nhưng đó lại là truyền thống mô phạm Nho giáo và hoàn toàn lạ lẫm với giáo dục khai phóng. Bà ngoại tôi học tiếng Pháp từ nhỏ nhưng lại tôn sùng tư tưởng Nho Khổng và xem văn hóa Anh Mỹ là “bạc ba” (barbaric), có nghĩa là “mọi rợ”. Các dì tôi làm giáo viên trường nhà nước thì dĩ nhiên cũng không tiến bộ hơn được bao nhiêu. Trong mắt gia đình bên ngoại tôi, Mỹ là một đất nước của sự sa đọa và ăn chơi, không có một nền giáo dục tử tế. Trong suốt bao nhiêu năm học ở Việt Nam, tôi cũng chỉ được học về một nước Mỹ đế quốc, hung hăng hiếu chiến chỉ biết xâm lược và gây chiến tranh trên khắp thế giới. Một quốc gia “xấu xa” như thế thì làm gì có một nền giáo dục tiến bộ và nhân văn. Trước khi sang Mỹ, những gì tôi được dạy về nền giáo dục Mỹ toàn là những chuyện tồi tệ: học sinh đi học không mặc đồng phục, không coi giáo viên ra gì. Học trò tuổi teen thì yêu đương và quan hệ tình dục từ rất sớm. Con cái Mỹ thì cãi cha cãi mẹ, cha mẹ mà đánh thì tụi nó sẽ gọi điện thoại cho cảnh sát tới bắt cha mẹ. Dân Mỹ thì tùy tiện xài súng để bắn giết nhau rất ghê. Tất nhiên những điều như thế không hoàn toàn là hoang đường vì chính tôi cũng từng trải nghiệm trong thời gian đi học và sau này là đi dạy ở Mỹ. Nhưng nếu bảo rằng những điều đó đại diện cho giáo dục nước Mỹ thì cũng giống như kiểu thầy bói xem voi, sờ được cái ngà voi hay cái tai voi thì cứ khăng khăng đây chính là con voi.

Khi học ngành sư phạm bên Mỹ, được làm việc trong môi trường giáo dục của Mỹ, cách nhìn nhận của tôi về nền giáo dục Hoa Kỳ đã thay đổi hoàn toàn, hay nói đúng hơn là tôi đã có cái nhìn toàn diện và khách quan hơn về nền giáo dục Mỹ. Nền giáo dục Mỹ dạy tôi cách suy nghĩ độc lập sau khi đã tìm hiểu mọi khía cạnh của một vấn đề chứ không cần nói theo người khác. Tôi học được cách tự do biểu đạt suy nghĩ của mình mà không sợ bị phán xét đồng thời học được cách tôn trọng ý kiến của người khác và không dùng quyền lực hoặc vai vế để áp đặt bắt người khác phải nghe theo mình. Tôi học được cách dạy cho học sinh của tôi hiểu thành tích không phải là tất cả và cũng không phải là đích đến của việc học. Thành công của một người không có nghĩa là luôn giành những thứ hạng cao, học ngành xịn để ra trường kiếm một công việc nhàn hạ lương cao lại có địa vị trong xã hội. Giá trị của một người không nằm ở tiền bạc, xe cộ hay nhà cửa mà nằm ở sự cống hiến cho cuộc sống. Đó là những điều mà trong suốt bao nhiêu năm học ở Việt Nam, cả gia đình và nhà trường đều không dạy cho tôi. Tất cả tôi được học khi ở Việt Nam là học thật giỏi, có thành tích thật cao để sau này tìm được một việc làm tốt và kiếm thật nhiều tiền. Chưa có ai ở Việt Nam dạy cho tôi yêu thích những gì mình học nếu nó không mang lại cho tôi nhiều tiền sau này.

Khi tôi chọn ngành sư phạm Anh để khi qua Mỹ, tôi chỉ đơn giản nghĩ rằng tôi muốn dạy cho người Việt một thứ tiếng Anh chuẩn hơn những gì tôi đã được hơn. Đổi lại, tôi sẽ kiếm được nhiều tiền và có nhiều thời gian rảnh rỗi để theo đuổi những ước mơ của mình. Tuy nhiên, khi học ngành sư phạm ở Mỹ, tôi hiểu được rằng đi dạy không phải để kiếm tiền và có nhiều thời gian cho riêng mình mà dạy học là phải khai sáng cho người học và hướng người học tới việc thay đổi nhận thức để chủ động trong tư duy.

Bây giờ nhớ lại những suy nghĩ ấu trĩ của mình lúc đó, tôi cảm thấy vừa xấu hổ vừa buồn cười. Hóa ra mình vốn là một con ếch ngồi đáy giếng từ trước đến giờ mà mình không biết. Khi hiểu được tầm quan trọng của giáo dục, tôi mới hiểu được rằng một đất nước phát triển như nước Mỹ thì không thể nào có một nền giáo dục tồi tệ hay què quặt được. Người Mỹ chưa bao giờ tự hào hay khoe khoang về cái gọi là “truyền thống giáo dục” Hoa Kỳ và tôi nghĩ rằng họ cũng có khái niệm đó, nhưng sự phát triển của đất nước họ là một minh chứng không thể chối cãi về một nền giáo dục tiến bộ và thành công.

BHV English IELTS Team

Tags

Có thể bạn quan tâm