Share on facebook

Chương 3: Những mối quan tâm đầu tiên về âm nhạc

Có thể bạn quan tâm

Như đã nói ở chương trước, qua nhiều trải nghiệm không mấy thú vị đối với âm nhạc, tôi đâm ra có ác cảm với những gì liên quan tới nhạc. Tuy nhiên, từ năm lớp 4 trở đi, tôi bắt đầu thích xem những bài dân ca được phát sóng trên tivi. Lúc đầu là dân ca ba miền của Việt Nam, nhưng sau đó dần dần tôi bắt đầu yêu thích dân ca các nước trên thế giới. Có lẽ vì được tiếp xúc với văn hóa Việt, Hoa, Pháp, Nga lại được học tiếng Anh từ bé nên tôi có sự quan tâm đặc biệt đối với những nền văn hóa khác nhau. Khi nghe các bài dân ca, tôi cảm nhận được sự khác biệt đặc trưng trong giai điệu cũng như cách diễn tấu các nhạc cụ truyền thống của những dân tộc khác nhau. Hơn nữa, các ca sĩ hát dân ca thường ăn mặc trang phục dân tộc để biểu diễn hoặc kèm theo những vũ điệu dân gian. Tôi còn nhớ lúc đó, tôi còn mua một cuốn sổ tay thật đẹp để chép lại lời của những bài dân ca mà tôi biết cả trong nước lẫn nước ngoài (dĩ nhiên là lời Việt). Sau này khi bắt đầu nghe rock, tôi vẫn dành một sự quan tâm đặc biệt đối với thể loại folk rock và những nhóm nhạc sự kết hợp giữa nhạc cụ cổ truyền với nhạc cụ điện tử. Trong bộ sưu tập đĩa nhạc của tôi có hẳn một ngăn kệ dành cho các đĩa dân ca các nước trên thế giới từ nhạc Châu Âu thời Trung Cổ, nhạc Celtic tới các thể loại dân nhạc vùng Trung Á như Mông Cổ, Tân Cương, Tây Tạng… Tôi đặc biệt thích âm nhạc dân gian của các dân tộc Trung Á vì nó mang tới cảm giác phóng khoáng, tự do và tràn đầy năng lượng.

Năm 1990, khi truyền hình thành phố bắt đầu phát sóng bộ phim Tây Du Ký của Trung Quốc, bộ phim được xem như “tuổi thơ” của những người thuộc lứa tuổi 8x-9x, tôi bắt đầu mê những ca khúc trong series này. Không chỉ bài hát chủ đề “Cảm vấn lộ tại hà phương” (Xin hỏi đường đi ở nơi đâu) mà tất cả những bài hát trong phim như “Ngũ bách niên tang điền thương hải” (Năm trăm năm ruộng dâu hóa bể), “Nữ nhi tình”, “Thanh không nguyệt nhi minh” (Bài ca quét bảo tháp), “Thiên Trúc thiếu nữ”, “Sinh vô danh, bản vô tính” (bài ca đại náo thiên cung), “Hà tất Tây Thiên vạn lý dao” (Hà tất phải đi tới Tây Thiên xa vạn dặm), “Thanh thanh bồ đề thụ” (Xanh xanh cội bồ đề) cho tới những bài nhạc hòa tấu trong phim đều khiến tôi mê mẩn vì giai điệu bài nào cũng hay vô cùng. Lúc đó mặc dù chưa học tiếng Phổ thông, tôi vẫn “bịa” ra lời để hát theo giai điệu của các bài hát này. Khi chương trình đặc biệt “Tề Thiên Lạc” vốn là chương trình mừng xuân năm 1987 của dàn diễn viên Tây Du Ký được truyền hình phát sóng, tôi lại biết thêm một số bài hát không có trong phim như “Đường Tăng trữ hoài” (Nỗi lòng Đường Tăng), “Bát Giới chi ca” (bài hát của Bát Giới) và “Đại Thánh ca”. Sau này khi sang Mỹ du học có dịp sống chung với những người bạn du học sinh Trung Quốc, tôi đã nhờ họ tìm cho tôi lời của tất cả những bài hát trong phim Tây Du Ký trên mạng để tôi có thể tập hát theo. Chỗ nào đọc không hiểu, tôi đều nhờ những người bạn đó giải nghĩa. Nhờ vậy mà tôi có thể hiểu rõ được nghĩa của những bài hát để có cảm được nội dung mà hát có cảm xúc chứ không chỉ hát thuộc lòng như một con vẹt. Tính tôi trước giờ vẫn thế, một là không biết thì thôi, còn nếu đã biết thì phải biết tới nơi tới chốn, chứ tôi không cam lòng biết thoáng qua một cách hời hợt.

Cũng nhờ sự yêu thích đối với nhạc dân ca và nhạc phim Tây Du Ký mà tôi phát hiện ra rằng mình có nhạc cảm khá tốt mặc dù lúc đó tôi chưa biết bảy nốt nhạc tròn méo ra sao chứ đừng nói tới nhạc lý. Tôi phát hiện ra mình có khả năng hát đúng tông và đúng giai điệu của bài hát, điều mà hầu như mọi người trong gia đình tôi đều không có trừ mẹ tôi. Thứ hai, tôi có khả năng thuộc giai điệu và lời bài hát rất nhanh đồng thời cũng nhớ bài hát rất lâu.Có nhiều bài hát tôi nghe cách đây hàng mấy chục năm nhưng khi tình cờ nghe lại, tôi vẫn nhận ra. Điều này đã giúp tôi tìm lại trên YouTube nhiều bài hát ngày nhỏ tôi nghe nhưng không biết tên mà chỉ nhớ được một phần lời hoặc giai điệu. Lúc chơi trong band nhạc, mỗi lần tập hát bài hát mới tôi đều thuộc lời rất nhanh, nếu nhập tâm chỉ cần hát qua 5-6 lần là có thể thuộc bài.

Như hầu hết các gia đình ở miền nam, nhà tôi thích nghe “nhạc vàng” bolero nhưng không hiểu sao từ nhỏ tới lớn tôi vẫn không thể cảm được dòng nhạc này mặc dù tôi thuộc khá nhiều bài bolero do nghe “thụ động” nhiều lần. Đối với tôi những bài nhạc vàng bolero gợi nhớ những đêm cúp điện tối om của thập niên 1980 và đâu đó trong xóm vọng lên tiếng hát u sầu và tiếng đàn guitar gỗ nghe buồn não nuột hoặc hình ảnh những người “thương phế binh” tóc tai bờm xờm chống nạng gỗ đi xin tiền hoặc bán nhang dạo mà hồi nhỏ tôi rất sợ. Công bằng mà nói có nhiều bản nhạc vàng trước năm 1975 có lời rất hay rất thơ như “Căn nhà màu tím” hay “Nỗi buồn gác trọ” nhưng phần lớn những ca khúc bolero mang đến cho tôi cảm xúc tiêu cực và bế tắc, không có lối thoát. Từ nhỏ tôi được nuôi dạy trong một môi trường đầy cảm xúc tiêu cực khi tất cả những người thân của tôi nếu không than thở về số phận của mình thì cũng sẽ oán hận trách móc nói xấu người kia. Chưa ai dạy tôi phải biết yêu thương hoặc biết ơn mà chỉ toàn là oán trách. Chưa bao giờ họ nghĩ những điều đó ảnh hưởng tới tâm hồn và sự phát triển nhân cách của một đứa trẻ như thế nào. Có lẽ vì vậy, trong tiềm thức tôi nảy sinh sự đối kháng với những nguồn năng lượng tiêu cực một cách mạnh mẽ. Tôi bắt nhịp rất nhanh với sự phản kháng của rock ngay từ khi mới tiếp xúc với nó nhưng tôi không kết nối được với bolero là vì thế.

Cuối những năm 1980, nhạc Việt Nam của các trung tâm Thúy Nga, Asia hay Làng Văn xuất hiện ở Sài Gòn khá nhiều qua những cuốn băng cassette và băng video lậu. Tôi chưa bao giờ thích nhạc hải ngoại chỉ đơn giản vì tôi không cùng tần số với nó. Tuy nhiên lúc nhỏ tôi khá thích nghe những liên khúc electro dance pop với các ca khúc tiếng Anh của những năm 1960 -1970 được viết lại lời Việt như “Scarborough fair” (tựa tiếng Việt là Giàn thiên lý đã xa), “ Tell Laura I love her” (Trưng Vương khung cửa mùa thu), “Sealed with a kiss” (Hạ vàng, biển xanh), “And I love her” (Và tôi mãi yêu em), “Sad movie” (Chuyện phim buồn), “Jamaica farewell” (Những lời yêu thương)… Tôi có ấn tượng đặc biệt với bài “Chuyện phim buồn” vì cả giai điệu lẫn ca từ đều rất…Tây. Sau này khi so sánh với lời gốc “Sad movie” tôi lại càng ngạc nhiên hơn vì cố nhạc sĩ Phạm Duy dịch rất sát lời tiếng Anh, gần như diễn tả được 90% ý nghĩa của ca khúc gốc trong khi những ca khúc tiếng nước ngoài được viết lời Việt thật ra phần lớn là mượn giai điệu của ca khúc nước ngoài và viết một lời Việt hoàn toàn khác, không liên quan tới lời gốc. Có rất nhiều bài được đặt lời một cách khá tùy tiện mà sau khi so sánh với lời gốc, tôi cảm thấy lời tiếng Việt rõ ràng làm giảm giá trị bài hát rất nhiều.

Một bài khác mà phần lời Việt tôi cũng rất thích tuy nó hoàn toàn không liên quan gì tới bài hát gốc đó là “Trưng Vương khung cửa mùa thu” (bài gốc Tell Laura I love her) vì ca từ giàu chất thơ lãng mạn với giọng nữ của ca sĩ Thanh Lan nghe rất nhẹ nhàng thanh thoát. Nhưng cũng có những bài mà lời Việt của nó khiến tôi cảm thấy ám ảnh nặng nề như bài “Tiễn em lần cuối” (lời Việt của Five Hundred Miles): “Trời lạnh giá bước chân buồn bã, đưa hồn em tới nơi xa vời. Đoàn xe tang tiễn đưa em về vùng trời xa xôi” hay “Tiếc thương” (Donna Donna): Ánh đèn vàng hiu hắt, khói trầm cay đôi mắt, em nằm đó sao không cười không nói.” Từ nhỏ tôi đã ý thức rất rõ như thế nào là sống và chết. Vì thế mỗi lần xem phim truyền hình đến đoạn người lớn giải thích cho một đứa trẻ rằng một người nào đó qua đời là “đi tới một nơi rất xa, rất xa” tôi lại cảm thấy buồn cười. Đó là một lời giải thích hết sức giả tạo mà những biên kịch cố gắng nhét vào phim một cách vụng về đến mức kệch cỡm. Tôi biết khi một người chết đi, người đó chấm dứt sự tồn tại của mình và tôi sẽ mãi mãi không còn được gặp người đó nữa cho dù có thương nhớ về người đó như thế nào đi chăng nữa. Suy nghĩ đó luôn ám ảnh tôi từ nhỏ tới lớn.

Tuy nhiên, cho tới thời điểm này tôi vẫn chưa hề có chút thiện cảm nào đối với nhạc tiếng Anh. Những năm cuối thập niên 1980 ở Sài Gòn, thể loại nhạc Euro dance pop của Boney M, Modern Talking, Sabrina, Joy với giai điệu dễ nghe trên nền nhạc điện tử xập xình là thể loại nhạc phổ biến khắp nơi. Các quán cafe hoặc các cửa hàng bán quần áo cũ (người Sài Gòn gọi là “đồ sida”) hầu như đều mở những bài như “You’re my heart, you’re my soul”, “Touch by touch” hoặc “You’re a woman” như một cách thể hiện sự sành điệu của mình mặc dù thời đó hầu như chẳng ai biết chữ tiếng Anh nào cả. Tôi còn nhớ nhiều nhà trong xóm tôi suốt ngày mở máy cassette hết volume những bài “Self Control” (Laura Branigan) hay “Boys” của Sabrina bất kể giờ giấc. Thời đó những chiếc xe đạp bán kẹo kéo sơn trắng thường trang bị một chiếc máy cassette để suốt ngày mở những bài hát này nên chúng còn được gọi bằng cái tên là “nhạc kẹo kéo. Đối với tôi, thứ âm nhạc này tuy nghe sôi động nhưng vô hồn và khá ồn ào. Không hiểu có phải vì thế mà tôi từ nhỏ đã không thích âm thanh điện tử của nhạc dance pop vì nó vui tươi một cách giả tạo và thiếu chiều sâu. Có lẽ do sống trong một môi trường quá nhiều drama nên trí thông minh cảm xúc của tôi rất nhạy. Tôi không thể ngồi xem hài nhảm rồi cười ha ha hay xem cải lương và khóc sướt mướt vì tôi biết tất cả đều là diễn. Những cảm xúc hời hợt hay giả tạo đều khó mà chạm được tới tôi. Nhưng ngược lại, một đoạn văn hoặc một hình ảnh chứa đựng cảm xúc thật có thể khiến tôi ám ảnh và suy nghĩ rất lâu về chúng. Tôi cảm nhận về nỗi đau bên của một người trong sâu sắc hơn những giọt nước mắt bên ngoài vì nước mắt có thể giả nhưng nỗi đau bên trong, những nỗi đau không nói được nên lời thì không thể giả được.

Sau này khi tìm hiểu tiểu sử của những nghệ sĩ rock nổi tiếng trên thế giới, tôi mới phát hiện ra rằng hầu như tất cả những ảnh hưởng âm nhạc của họ lúc đầu đều không phải là rock mà là những thể loại khác chẳng liên quan lắm tới rock như nhạc cổ điển, dân ca, jazz thậm chí là những bài hát đồng dao mà họ nghe từ nhỏ và khi sáng tác, một cách vô thức những dấu ấn này đều xuất hiện trong âm nhạc của họ qua giai điệu, ca từ hoặc lối hòa âm phối khí. Đâu phải ai nghe rock hoặc chơi rock đều bắt đầu từ rock và cũng chỉ chịu sự ảnh hưởng của nhạc rock. Một người yêu âm nhạc thực sự là một người không bao giờ cực đoan chỉ nghe một vài thể loại mà mình yêu thích mà luôn cảm nhận được cái hay của những dòng nhạc khác nhau. m nhạc cho dù bất cứ là thể loại nhạc gì, nếu chạm được vào cảm xúc của người nghe nhạc hoặc chơi nhạc thì đều là thứ âm nhạc có giá trị về nghệ thuật.

BHV English IELTS Team

Tags

Có thể bạn quan tâm