Lúc mới vào NSU, tôi được dẫn đến văn phòng tiếp nhận du học sinh quốc tế để được hướng dẫn đường đi nước bước. Ở Mỹ, các trường đại học không dùng từ “foreign students” (sinh viên nước ngoài) để chỉ du học sinh mà dùng từ “international students” (sinh viên quốc tế) vì từ “foreign” mang ý nghĩa kỳ thị và xa cách. Có hai dạng “international students”, như tôi được gọi là “permanent international student” nghĩa là du học sinh học hết chương trình từ năm nhất tới khi tốt nghiệp. Còn những du học sinh sang học ngắn hạn một học kỳ hoặc một năm học theo những thỏa thuận trao đổi sinh viên giữa NSU và các trường đại học khác trên thế giới được gọi là “exchanged international student”. Quản lý phòng tiếp nhận du học sinh là cô Marilyn Gonzales, người gốc Mexico, đầu mỗi học kỳ đều tổ chức một buổi tiệc gọi là “welcome back party” dành cho du học sinh cũ và mới gặp gỡ giao lưu với nhau. Ngoài ra nếu các du học sinh mới có vấn đề gì về chỗ ăn ở hoặc phương tiện đi lại đều có thể liên lạc với cô Gonzales để được hướng dẫn sắp xếp. Tuy nhiên, ngoài việc giúp đỡ riêng lẻ từng người, phòng quản lý du học sinh hầu như không có hoạt động gì để kết nối các du học sinh với nhau để tạo thành một cộng đồng cả.
Nếu như năm học đầu tiên tại NSU, tôi chỉ có Zhang Jing là bạn thân, từ năm thứ hai trở đi tôi bắt đầu có thêm nhiều bạn mới. Phần lớn đều là du học sinh giống như tôi trừ một vài người bạn Mỹ ở hội thánh Tin Lành Chi Alpha. Tiếng Anh tôi không hề tệ và tôi cũng không phải là dạng người không biết cách giao tiếp nhưng không hiểu tại sao khi ở Mỹ, tôi lại không thích làm bạn với các sinh viên Mỹ mặc dù người Mỹ vốn thoải mái, cởi mở trong giao tiếp. Khi tổ chức party ở nhà cho dù thân hay không họ cũng sẽ rủ tôi đến chơi nhưng vì tôi không thích cảm giác lạc lõng trong một đám đông xa lạ nên tôi rất hiếm khi dự những party của bạn bè người Mỹ. Chọn đối tượng kết bạn là các du học sinh giống tôi, tôi muốn tìm một sự đồng cảm từ những người xa xứ giống mình và muốn tìm hiểu thêm về nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới.
Trường NSU thuộc loại nhỏ và không nổi tiếng nên cộng đồng du học sinh không đông như những trường khác, mỗi năm chỉ có độ từ 10-20 sinh viên mới từ các nước khác, chủ yếu là từ Nam Mỹ và châu Âu. Học kỳ mùa thu năm 2002 là học kỳ NSU tiếp nhận nhiều sinh viên nước ngoài nhất từ đủ các quốc gia. Đông nhất là các sinh viên Nhật, phần lớn đều là bạn thân của tôi sau này. Khác với những người Nhật tôi được nghe kể về hoặc đọc trong sách vở, tính cách của những du học sinh người Nhật mà tôi học chung đều không có những dân tộc tính kiểu nghị lực phi thường hay tinh thần thép gì cả. Thật lòng mà nói, tôi không rút được một mẫu số chung nào về tính cách của các du học sinh người Nhật mà tôi đã từng tiếp xúc ở NSU. Ba chàng ngố Osamu, Hidei, và Yuuta thì tính tình chẳng khác nào Nobita trong truyện Doraemon: hậu đậu, bê bối và lúc nào cũng lóng nga lóng ngóng. Tiếng Anh của họ khá tệ, nhất là về phát âm. Kentaro thì nhìn chải chuốt hơn nhưng tính tình khá đồng bóng, kiêu ngạo và khó gần. Trong khi đó, những cô gái Nhật thì tiếng Anh lại tốt hơn rất nhiều. Từ những cô gái trẻ Ami, Mutsumi (Mutchi), Satomi, Ayumi và Tomomi (Mimi) đến những người lớn tuổi như Saori, Fumie và Takako đều nói tiếng Anh khá lưu loát, phát âm khá chuẩn. Đặc biệt các cô Nhât, ai nầy tửu lượng đều rất cao. Người uống được ít nhất là cô bé Tomomi nhí nhảnh có giọng hát tuyệt vời cũng phải đến bốn lon mới bắt đầu chếnh choáng. Còn lại thì ai cũng có thể chấp cả đám mày râu. Có lẽ do xuất thân từ gia đình khá giả lại thuộc thế hệ sau, những cô gái trẻ người Nhật này mang tính cách của các nữ sinh trong các truyện manga hơn là dân tộc tính của Nhật: một tí ngây thơ, một tí lãng mạn, hơi xa rời thực tế một tí và khá thoải mái trong chuyện tình cảm. Còn hai cô lớn tuổi nhất Takako và Saori lại có khuynh hướng khép kín, ít tiếp xúc với bên ngoài. Trong đám du học sinh Nhật Bản, tôi nể nhất và thân nhất với chị Takako vì chị là người rất bản lĩnh và luôn có suy nghĩ tích cực.
Nhóm du học sinh đông thứ ba là những sinh viên đến từ các nước Mỹ Latin bao gồm anh chàng Mexico đẹp trai nhưng tưng tửng Alejandro, chị em Cristina và Mario Castro người Bolivia, một cặp vợ chồng đến từ Tobago & Trinidad mà tôi không còn nhớ tên và hai anh em Alan và Roberto người Peru. Sau đó là các du học sinh Nam Á: Satyam và Prakash người Ấn Độ, Binaya đến từ Nepal và hai chàng Hồi giáo, “Prince” Khan đến từ Bangladesh và Bilal Shahid đến từ Pakistan. Ngoài Satyam sống ở nhà người thân ở Thibodaux, còn ba anh chàng kia đều khá thân với tôi.
Nhóm du học sinh theo dạng trao đổi gồm có Dominique người Bỉ và cô bạn gái người Pháp gốc Hoa Evelyn, anh chàng người Đức Dirk Hermann, cô gái người Anh tên Kate và một số sinh viên đến từ Pháp. Vì chỉ học ở trường 1 học kỳ nên nhóm sinh viên này có vẻ tách biệt đặc biệt là nhóm sinh viên Pháp. Họ luôn tỏ vẻ kênh kiệu và tách biệt, chỉ chơi với nhau mà không chơi với những nhóm khác. Riêng Kate, cô gái người Anh thì khá thân thiện và vô tư, có lẽ là vì cô là người duy nhất đến từ Anh nên cũng cảm thấy cô đơn. Kate đến giờ vẫn là bạn thân của tôi. Chúng tôi thỉnh thoảng vẫn nhắn tin hoặc gọi video chat cho nhau để trò chuyện. Kate rất thích Andi, con tôi, nên hay gọi video chat nói chuyện với bé.
Thấy trường có một đội ngũ du học sinh mới mà không có hoạt động gì để kết nối, trong khi mình đang buồn chán, tôi đề nghị cô Gonzales cho mình tổ chức hội sinh viên quốc tế để tạo một cộng đồng. Với kinh nghiệm quản lý câu lạc bộ Anh Văn ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên từ năm 1998 đến năm 2001, tôi tin rằng mình có thể làm được điều này. Cô Gonzales hưởng ứng ý tưởng của tôi vì trước đó cô bạn Cristina Castro người Bolivia cũng đã kiến nghị thành lập một cộng đồng sinh viên nói tiếng Tây Ban Nha để giúp đỡ lẫn nhau. Và thế là NIC (viết tắt của Nicholls International Community) được thành lập với Cristina làm president còn tôi làm Vice President với nhiệm kỳ 1 năm.
Tuy không cố tình chia phe nhưng vì những khác biệt văn hóa nên gần như một cách tự nhiên, các sinh viên Trung Mỹ và Nam Mỹ có khuynh hướng theo phe của Cristina còn các sinh viên Nhật, Trung Quốc thì theo phe tôi. Cả hai chúng tôi đều đưa ra những kế hoạch hoạt động để kết nối các du học sinh ở trường. Cristina đề nghị tổ chức một buổi “potluck party” tại Student Union để các sinh viên mỗi nước đều nấu một món ăn đặc trưng của ẩm thực nước mình mang đến cho mọi người thưởng thức. Sinh viên Mỹ muốn tham gia thì cũng có thể làm đồ ăn mang đến hoặc mua vé như mua vé ăn buffet. Vì quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm của trường rất khắt khe, tất cả những món mà chúng tôi nấu đều được lấy mẫu để lưu lại và gửi cho phòng thí nghiệm của trường để phòng tình trạng bị ngộ độc thức ăn sẽ có thể truy nguyên nguồn gốc. Lần “potluck party” đó tổ chức khá thành công thậm chí còn được lên báo của trường, như đánh dấu sự ra đời của NIC.
Kế hoạch của tôi là tổ chức một buổi kiểu hội chợ trưng bày những hình ảnh hoặc vật phẩm đặc trưng cho văn hóa của quốc gia của mình với mỗi quốc gia là một gian hàng. Điều này tôi đã có kinh nghiệm khi làm gian hàng của câu lạc bộ tiếng Anh khi Nhà Văn Hóa Thanh Niên đăng cai tổ chức sự kiện Sài Gòn 300 năm vào năm 1998 và chương trình chào đón thiên niên kỷ năm 2000 nên tôi muốn áp dụng ở NIC. Với tiếng nói của cô Gonzales và cô Karen Cuff, một người Brazil từng tốt nghiệp tại NSU và ở lại làm việc cho trường, chương trình International Students’ Day: World Fair 2002 do NIC tổ chức diễn ra khá thuận lợi và được giới thiệu cho cộng đồng dân cư ở thị trấn Thibodaux đến tham quan. Bọn tôi còn xin nhà trường cho mượn rạp chiếu phim La Bijou Theater để kết hợp làm tuần lễ phim quốc tế với các bộ phim của Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Mexico và Trung Quốc. Với sự thành công của chương trình này, tôi cảm thấy mình như sống lại những ngày tháng còn hoạt động nhiệt tình ở Nhà Văn Hóa Thanh Niên. Đó là lần đầu tiên sau hơn một năm ở Mỹ, tôi cảm thấy mình có giá trị vì làm được một điều có ý nghĩa khiến tinh thần tôi cũng vì thế mà phấn chấn lên được một chút. Chỉ tiếc là do lúc đó tôi không có máy chụp hình digital nên không chụp được những khoảnh khắc ấy để lưu lại. Giá như thời đó mà có smartphone thì hay biết mấy.
Sau đó NIC còn làm một số chương trình khác như tổ chức rửa xe và làm bánh cookie bán để gây quỹ. Năm 2003, tôi vẫn còn tham gia vào ban cán sự của NIC thêm một năm học nữa nhưng vì việc học bắt đầu có nhiều áp lực nên cũng không tổ chức hoạt động gì nhiều. Đến năm 2004, do phải tập trung vào việc học hành khi các lớp chuyên ngành bắt đầu trở nên khó nhằn, đồng thời một phần những người bạn cũ trong NIC đều tốt nghiệp hoặc chuyển sang trường khác học, tôi quyết định không tiếp tục ứng cử vào ban lãnh đạo của NIC mà chỉ tham gia các hoạt động với tư cách hội viên thông thường cho tới ngày ra trường.