Thập niên 1990: Thời hoàng kim của “English Speaking Club”
Khoảng thời gian từ năm 1997 đến năm 2000 là thời đại hoàng kim của các English Speaking Club (ESC- câu lạc bộ nói tiếng Anh). Hầu như trường đại học hoặc trung tâm Anh ngữ nào cũng có một ESC riêng cho mình với quy mô từ vài chục đến vài trăm hội viên tùy theo không gian và độ hấp dẫn của nội dung sinh hoạt. Những ai từng là sinh viên những năm cuối thập niên 1990 chắc sẽ không thể không biết đến thú vui tao nhã là hẹn nhau đi sinh hoạt tại các ESC mỗi cuối tuần. Những ESC không những là nơi để cùng nhau giao tiếp bằng tiếng Anh mà là còn là nơi giao lưu, gặp gỡ, kết bạn và thậm chí là tìm người yêu của giới sinh viên và trí thức trẻ Sài Gòn thời đó. Khỏi phải nói, hễ ai có thể nói tiếng Anh lưu loát thì nghiễm nhiên trở thành “tâm điểm” của mọi sự chú ý.
Hình thức sinh hoạt của một ESC cũng rất đơn giản. Đối với những câu lạc bộ hoạt động thường kỳ, hội viên chỉ cần đến và bỏ ra 2000 đồng để mua một tờ “topic” như vé vào cổng rồi tìm một nhóm nào đó để có thể ngồi vào và cùng thảo luận chủ đề chính được in trên tờ “topic” với những thành viên còn lại trong nhóm. Người nào đã đi quen thì thường hẹn bạn bè để ngồi chung một nhóm cho vui. Ai lạ thì tìm nhóm nào không quá đông người rồi lịch sự xin phép ngồi xuống và bắt đầu giới thiệu về bản thân bằng tiếng Anh và thế là có thể bắt đầu thảo luận. Tùy theo mặt bằng trình độ chung của các thành viên trong nhóm mà sẽ có những nhóm trao đổi trò chuyện rất xôm tụ nhưng cũng có những nhóm sau khi giới thiệu về bản thân thì mạnh ai nấy cắm cúi …đọc tờ “topic” mua ở cổng vào cho tới hết giờ sinh hoạt.
Nói đến các ESC mà không nhắc tới những tờ “topic”, một loại vé vào cổng độc đáo, thì quả thật là rất thiếu sót. Thường thì một tờ “topic” gồm có 4 mặt (khổ A3 gấp làm đôi) được thiết kế như một tờ báo giấy đơn giản. Trang bìa luôn luôn sẽ là tên và logo của câu lạc bộ kèm theo một bài viết ngắn bằng tiếng Anh độ khoảng 300-400 từ về một chủ đề nào đó với những câu hỏi gợi ý để người tham gia có thể dùng thảo luận với nhau. Mặt trong của tờ topic là những bài viết kiểu “tin nhanh” , đố vui, ô chữ, truyện cười bằng tiếng Anh còn mặt sau cùng sẽ là một hoặc hai bài hát tiếng Anh (có thể là một bài hát bất hủ hoặc một bài đang thịnh hành tại thời điểm đó) để mọi người có thể cùng hát theo cuối giờ sau khi đã thảo luận mệt. Ở cái thời mà internet vẫn chưa xuất hiện, những tờ “topic” của các ESC là những tư liệu quý báu để sinh viên có thể mở mang thêm kiến thức và học thêm tiếng Anh rất có giá trị về mặt thông tin. Có người mỗi tuần đi sinh hoạt ở câu lạc bộ xong còn mang về đóng thành tập để làm kỷ niệm không thiếu một số nào.
Thỉnh thoảng để thay đổi không khí và để thu hút hội viên mới, các ESC sẽ tổ chức những cuộc thi hùng biện bằng tiếng Anh hoặc thi hát tiếng Anh với giải thưởng tuy không mang nặng giá trị về vật chất (thường là 1 năm tham gia ESC miễn phí hoặc mấy cuốn Sunflower, tạp chí tiếng Anh phổ biến của giới sinh viên Sài Gòn thời đó) nhưng người chiến thắng luôn cảm thấy rất vinh dự và dĩ nhiên sẽ trở thành “celebrity” (ngôi sao) trong mắt của những hội viên khác. Cũng có một số ESC mời một số du khách nước ngoài (Anh, Mỹ, Úc…) đến tham gia để hội viên có điều kiện “thực chiến” với người bản ngữ. Có nơi sẽ tổ chức những buổi chiếu phim tiếng Anh cho hội viên xem. Nói chung mỗi câu lạc bộ tùy theo thế mạnh của mình sẽ có những hoạt động thích hợp để quảng bá tên tuổi của mình.
Trong vô số các câu lạc bộ tiếng Anh thời đó, ESC của Nhà văn hóa thanh niên là câu lạc bộ nổi tiếng nhất cả về chất lẫn lượng với số lượng người tham gia lên đến con số 2000 hội viên vào mỗi buổi sáng chủ nhật. Vì số lượng hội viên tham dự quá đông nên bên cạnh dãy phòng học gồm 6 lớp trên lầu 2 của nhà văn hóa, câu lạc bộ còn thuê luôn cả sân vườn của quán cà phê Nhạc Sĩ đường Nguyễn Văn Chiêm, nay là cà phê Trung Nguyên mới đủ chỗ sinh hoạt. Giờ sinh hoạt của câu lạc bộ là 8:00 – 11:00 sáng chủ nhật nhưng những hội viên đến trễ thường phải đứng tràn ra hành lang để sinh hoạt vì không còn đủ chỗ ngồi. Những ESC khác như câu lạc bộ của đại học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn, ESC Mai Thị Lựu, ESC đại học Sư Phạm … thời kỳ hoàng kim cũng có đến vài trăm thành viên hoặc phải tổ chức thành hai buổi sáng và chiều mới đủ chỗ ngồi cho người tham gia.
Có thể nói sự ra đời và phát triển của mô hình ESC ở Sài Gòn ở giai đoạn cuối những năm 1990 không những thúc đẩy được phong trào học tiếng Anh của giới sinh viên học sinh mà còn tạo ra một sân chơi rất lành mạnh cho những trí thức trẻ của thành phố. Tuy nhiên cũng như mọi thứ trên đời, có thịnh thì ắt có suy. Bước sang những năm 2000, các ESC ở Sài Gòn vẫn hoạt động ổn định với quy mô nhỏ hơn ở các trung tâm ngoại ngữ hoặc các trường đại học như một dạng hoạt động ngoại khóa do giáo viên và học viên tổ chức. Tuy nhiên, ở thời đại internet trở nên phổ biến, người ta có nhiều lựa chọn hơn cho việc học tiếng Anh nên các câu lạc bộ như thế dần dần mất đi chỗ đứng. Năm 2007, khi tôi về lại Sài Gòn để dạy cho một trung tâm ngoại ngữ, ban quản lý cũng nhiều lần tổ chức các ESC vào cuối tuần miễn phí cho học viên của trung tâm nhưng chỉ sau vài lần số lượng người tham gia giảm xuống rõ rệt cho tới lúc quá ít để có thể tiếp tục duy trì hoạt động. Một số học trò tôi cũng muốn tổ chức các ESC ở các quán cafe để thu hút bạn bè tới tập nói tiếng Anh nhưng cũng không thành công. Từ năm 2010 trở đi, hầu như không còn một ESC nào còn tồn tại ở Sài Gòn nữa.
Những năm tháng không quên với ESC của Nhà Văn Hóa Thanh Niên
Năm 1998 khi đang học lớp 11, tôi tham gia vào câu lạc bộ tiếng Anh của Nhà văn hóa Thanh Niên trên đường Phạm Ngọc Thạch theo lời giới thiệu của dì Út tôi vì lúc đó gia đình tôi muốn tôi trau dồi thêm kỹ năng nói để sau này đi du học. Thật ra lúc đầu tôi cũng không hứng thú với việc đi sinh hoạt câu lạc bộ lắm vì mặc dù tiếng Anh tôi thuộc loại khá giỏi, tôi là người hướng nội nên không thích đến những chỗ đông người đặc biệt là những nơi toàn là sinh viên lớn hơn tôi. Hơn nữa cách đó khoảng 1 năm, tôi đã từng tham gia vào cuộc thi hát tiếng Anh tại một ESC của một trường đại học và có lẽ do quá căng thẳng nên lần đó tôi hát rất tệ một bài hát mà thường tôi vẫn hay hát ở nhà. Sau lần thất bại đó, tôi “ôm vết thương lòng” và thề sẽ không tham gia sinh hoạt ở bất cứ một ESC nào nữa. Mấy lần dì Út tôi rủ tôi đi ESC cho có bạn, tôi đều tìm cớ thoái thác vì chướng ngại vật tâm lý này.
Vậy mà trời xui đất khiến sau nhiều lần trì hoãn và né tránh, tôi cũng đến tham dự ESC ở Nhà văn hóa Thanh Niên đúng vào ngày câu lạc bộ đang tuyển thêm supervisor (người điều phối chương trình). Tôi đăng ký thi vì thấy trong phần mô tả công việc có việc xách đàn đi hát cho các hội viên vào cuối mỗi buổi sinh hoạt mặc dù lứa tuổi tham dự tối thiểu phải là 18 tuổi (lúc đó tôi chỉ mới 16 tuổi rưỡi). Ý của tôi lúc đó chỉ muốn thi cho vui vì tôi nghĩ mình chưa đủ tuổi để được tuyển và khả năng nói tiếng Anh của mình chưa chắc gì đã vượt qua được những anh chị sinh viên. Ai ngờ tôi trúng tuyển với số điểm khá cao, được ban giám khảo đặc cách vì tôi vừa có thể nói tiếng Anh tốt, vừa có thể đàn hát tốt nên tôi nghiễm nhiên trở thành supervisor trẻ nhất của câu lạc bộ. Đó là bước ngoặc lớn trong cuộc đời tôi và nó có ảnh hưởng khá nhiều đến quyết định chọn nghề đi dạy tiếng Anh của tôi sau này.
Để điều hành một câu lạc bộ với số lượng hội viên khổng lồ như thế là một ban tổ chức làm việc khá chặt chẽ gồm có một chủ nhiệm, hai phó chủ nhiệm chuyên chịu trách nhiệm về nội dung đăng của tờ topic và khoảng 6-8 điều phối viên (gọi là supervisor) có nhiệm vụ chia nhóm và giúp các hội viên mới có thể tự tin nói tiếng Anh. Ngoài ra còn có một hoặc hai bạn làm nhiệm vụ bán tờ topic, thu tiền và một cộng tác viên biết chơi đàn guitar để có thể đàn và tập hát cho các hội viên sau giờ sinh hoạt. Là một supervisor, công việc của tôi là đi vào các nhóm hội viên vào đầu giờ để kết nối mọi người với nhau bằng cách giới thiệu về chủ đề thảo luận trên tờ topic và bắt chuyện khuyến khích những hội viên mới còn ngại nói tiếng Anh giới thiệu về bản thân mình. Cứ nhóm nào thấy ổn thì tôi lại đi sang nhóm khác xem có cần sự giúp đỡ gì không. Đến khoảng 10 giờ thì nhóm supervisor tập trung lại để tập bài hát và đến hát với từng nhóm. Nhờ biết chơi guitar và hát tốt, nên tôi kiêm luôn phần đệm đàn và hát cho các nhóm mặc dù trong câu lạc bộ đã có một anh chuyên chơi guitar. Thường thì một buổi sinh hoạt câu lạc bộ như thế sẽ kéo dài từ 8 giờ sáng đến khoảng 11 giờ trưa chủ nhật, sau đó ban quản lý câu lạc bộ sẽ cùng nhau thu dọn, kiểm tra lại tiền bạc và số tờ topic dư và kéo nhau qua quán nước mía đối diện uống nước mía và sau đó rủ nhau đi ăn trưa.
Làm supervisor trong câu lạc bộ tiếng Anh đối với tôi tại thời điểm đó là một công việc hết sức lý tưởng. Tôi chỉ mong đến ngày chủ nhật để trút bỏ bộ đồng phục học sinh cấp ba và thời khóa biểu dày đặc lịch học chính thức lẫn học thêm mà đóng bộ sơ mi dài tay, quần tây, cà vạt và giày tây nhìn như dân đi làm văn phòng để đến ESC cùng mọi người nói tiếng Anh và đàn hát. Là học sinh cấp ba nhưng lại được làm việc trong môi trường toàn là sinh viên đại học, tôi cảm thấy mình trưởng thành hẳn so với bạn bè cùng lứa. Của đáng tội, ở tuổi 16 tôi đã cao trên 1.75m, với bộ dạng chững chạc lại có thể nói tiếng Anh lưu loát và hát hay, tôi đã mấy lần suýt cưa đổ được các “chị” sinh viên năm 2-3 rất xinh thường đi sinh hoạt ở câu lạc bộ. Dĩ nhiên, chỉ là suýt nữa vì một chị đã rút lui khi tôi thú nhận rằng mình đang học lớp 11 còn một chị nữa thì vô tình bắt gặp tôi đạp xe trên đường trong bộ đồng phục trường Minh Khai vào một buổi chiều đẹp trời nào đó.
Đội ngũ supervisor cùng trúng tuyển với tôi đều là những anh chị sinh viên lớn tuổi hơn nhưng tôi không cảm thấy sự cách biệt gì vì mọi người đối với tôi đều rất hòa đồng và thân thiện. Chủ nhiệm câu lạc bộ là anh Tiến và hai phó chủ nhiệm là anh Hồng Anh và anh Hoàng Hùng, tất cả đều đã lớn và đi làm. Lúc đó tôi cực kỳ thần tượng anh Hoàng Hùng vì anh là người đầy nhiệt huyết, năng động và nói tiếng Anh rất tốt. Chính anh là người đặc cách chọn tôi làm supervisor mặc dù tôi chưa đủ độ tuổi quy định là 19 tuổi vì anh tin rằng tôi làm được. Được vào làm “đệ tử” của anh, tôi vô cùng hãnh diện và hứa với lòng sẽ cố gắng làm tốt nhất để không phụ lòng anh. Trong quá trình làm việc chung với anh, tôi được học hỏi rất nhiều điều từ việc đứng nói chuyện trước đám đông như thế nào để có thể thu hút người nghe cho đến cách phối quần áo, thắt cà vạt, đánh giày… Có thể nói anh chính là người đầu tiên đã phát hiện ra những tiềm năng của tôi và giúp tôi hoàn thiện chúng. Nếu không gặp được anh, có lẽ cuộc đời của tôi đã đi sang một hướng hoàn toàn khác.
Một điều quan trọng nữa khi làm việc ở câu lạc bộ Anh Văn là tôi được trả lương hàng tháng từ số tiền bán tờ topic mỗi tuần sau khi đã trả tiền thuê mặt bằng và chi phí in ấn các tờ topic. Tùy theo cấp bậc và nhiệm vụ của mình mà các thành viên trong ban tổ chức sẽ được nhận một số tiền thù lao tương ứng. Tôi nhớ lúc đó, lương của chủ nhiệm là 200.000 đồng cho bốn buổi sinh hoạt sáng chủ nhật, phó chủ nhiệm là 150.000 đồng, các supervisor như tôi là 120.000 đồng còn những cộng tác viên bán topic vào cổng hoặc chơi đàn là 100.000 đồng. Ở thời điểm đó, lương căn bản của một sinh viên mới ra trường chỉ từ 500.000 đến 800.000 đồng/tháng, thì số tiền phụ cấp dành cho việc tham gia ban điều hành câu lạc bộ Anh Văn là một số tiền đáng mơ ước của giới sinh viên. Là học sinh cấp ba mà tôi kiếm được số tiền đó, chẳng phải là đáng tự hào lắm sao? Cứ mỗi cuối tháng được nhận bao thư đựng thù lao bên ngoài có ghi dòng chữ “Cảm ơn anh Huỳnh Chí Viễn, thù lao tháng…” là tôi có cảm giác như mình là một nhân vật VIP chính hiệu.
Trong suốt khoảng thời gian từ năm 1998 đến năm 2001, tôi làm việc ở câu lạc bộ Anh Văn của Nhà văn hóa Thanh Niên cho tới ngày tôi sang Mỹ du học. Là câu lạc bộ lớn nhất trong hệ thống các câu lạc bộ và đội nhóm của Nhà văn hóa Thanh Niên, chúng tôi thường xuyên tổ chức nhiều sự kiện và chương trình thi hát tiếng Anh thu hút đông đảo các bạn sinh viên từ các trường đại học tham gia và liên tục nhận được bằng khen cuối năm của nhà văn hóa. Đến năm 2000, anh Hoàng Hùng được bầu làm chủ nhiệm câu lạc bộ thay thế cho chủ nhiệm cũ là anh Tiến và tôi được bầu làm phó chủ nhiệm khi vừa tròn 19 tuổi. Đây có thể xem là một trong những kỷ niệm đẹp nhất trong đời tôi và nhờ những kinh nghiệm khi làm việc ở câu lạc bộ tiếng Anh, tôi trở nên tự tin hơn khi đi học ở Mỹ và đến năm 2003, tôi trở thành đồng sáng lập viên của hội du học sinh Nicholls International Community (NIC) của đại học Nicholls State University.
Sau này khi về Việt Nam đi dạy tiếng Anh, tôi nhiều lần quay lại thăm câu lạc bộ tiếng Anh của Nhà văn hóa Thanh Niên nhưng hầu hết những anh chị cũ từng cộng tác với tôi đều không còn làm ở đó vì ai cũng có gia đình và sự nghiệp riêng. Câu lạc bộ cũng không còn đông đúc như xưa vì ở thời đại thế giới phẳng, việc tìm tài liệu học tiếng Anh hoặc tìm bạn giao tiếp không còn là vấn đề nữa. Nhưng mỗi lần quay về chốn cũ, tôi không thể không bồi hồi xúc động nhớ lại một thời tuổi trẻ của mình với những ngày tháng đầy kỷ niệm với ESC Nhà văn hóa Thanh Niên, nơi tôi đã học hỏi và trưởng thành.



