I. Hiểu thế nào cho đúng về chủ nghĩa cá nhân?
Một hôm nhân lúc trà dư tửu hậu đàm đạo với một ông bạn, tôi có đưa ra nhận xét rằng muốn đất nước phát triển lên tự do dân chủ và công bằng văn minh, chủ nghĩa cá nhân phải được tôn trọng và phải được khuyến khích. Chưa nghe hết lời tôi nói, ông bạn đã giãy nảy lên bảo rằng, con người bây giờ ai cũng ích kỷ chỉ biết lo cho bản thân mình vậy chưa đủ hay sao mà còn khuyến khích chủ nghĩa cá nhân. Ông bạn tôi cũng như rất nhiều người trong chúng ta có một sự nhầm lẫn giữa chủ nghĩa cá nhân (individualism) và chủ nghĩa vị kỷ (egoism). Sự hiểu lầm này là kết quả của sự đánh tráo khái niệm một cách cố ý. Nếu chủ nghĩa vị kỷ kìm hãm sự phát triển của cộng đồng và xã hội thì chủ nghĩa cá nhân ngược lại sẽ khiến cho xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ và tích cực.
Chủ nghĩa cá nhân là một khái niệm triết học ra đời ở châu Âu vào khoảng thế kỉ 17-18, cùng thời với trào lưu triết học khai sáng (Enlightenment), sự phát triển của đạo Tin Lành, và những cuộc thám hiểm của những nhà hàng hải châu Âu đi tìm những vùng đất mới để làm thuộc địa. Chủ nghĩa cá nhân cũng là tiền đề cho các cuộc cách mạng tư sản một thế kỷ sau đó trên khắp lục địa châu Âu. Khi được du nhập vào Mỹ, chủ nghĩa cá nhân được phát triển thành chủ nghĩa tiên nghiệm (transcendentalism), nền tảng triết lý của người Mỹ. Vậy chủ nghĩa cá nhân có những đặc điểm gì?
1. Trước tiên, chủ nghĩa cá nhân phát triển dựa trên một chân lý, mỗi người đều là một cá thể độc lập về trí tuệ, tư duy và hành động. Chính vì vậy mỗi cá nhân phải được tôn trọng và khuyến khích phát triển sự khác biệt cá nhân để có thể phát triển tới mức tối ưu những sở trường của mình. Chủ nghĩa cá nhân hiểu rõ một điều, mỗi người đều có mặt mạnh và mặt yếu khác nhau. Chúng ta không thể bắt cá leo cây như khỉ hoặc khỉ phải bơi giỏi như cá.
2. Vì năng lực khác nhau nên năng suất lao động, hiệu quả công việc cũng như đóng góp của mỗi cá nhân cho xã hội cũng sẽ khác nhau. Người có năng lực thấp dĩ nhiên không thể cống hiến bằng người có tài năng. Điều đó dẫn đến một hệ quả tất yếu: mức độ hưởng thụ cũng sẽ tỉ lệ thuận với mức độ cống hiến. Nói một cách dễ hiểu: người bỏ nhiều công sức sẽ được hưởng nhiều, người bỏ ít công sức sẽ được hưởng ít và người không bỏ công sức để đóng góp sẽ không được hưởng gì cả. Điều này thúc đẩy sự cố gắng nỗ lực của mỗi cá nhân để hoàn thiện bản thân mình vì xét cho cùng, ai cũng muốn được no đủ hạnh phúc. Không ai muốn nghèo đói khổ cực.
3. Chủ nghĩa cá nhân bắt buộc và đề cao tính tự lập của mỗi người vì không ai muốn nuôi một kẻ ăn bám mình suốt đời cho dù là cha mẹ lo cho con cái thì cũng chỉ tới khi con cái đủ tuổi thành niên, chúng dứt khoát phải tự lập để lo cho bản thân mình. Đổi lại, khi con cái đã tự lập, chúng có toàn quyền quyết định cuộc đời, sự nghiệp và hạnh phúc tương lai của chúng mà không phải chịu sự chi phối của cha mẹ, Trong một xã hội mà chủ nghĩa cá nhân được xem là triết lý nền tảng, sẽ không có chỗ dành cho những kẻ ăn không ngồi rồi và dựa dẫm vào người khác. Những kẻ lười biếng sẽ bị khinh bỉ và tẩy chay.
4. Khi con người có thể tự thân vận động tức là có thể tự lập về tài chính nuôi sống bản thân mình, họ có quyền đòi hỏi những quyền tự do khác của họ như quyền tư duy độc lập hoặc tự do ngôn luận, quyền tự do về nhân thân được tôn trọng. Điều này cũng dễ hiểu. Một khi bạn phải dựa dẫm vào người khác để có hai bữa ăn và chỗ ở, bạn không thể mạnh miệng đòi hỏi này nọ. Chỉ cần bị khống chế về mặt tài chính, bạn sẽ khốn đốn và phục tùng.
II. Chủ nghĩa cá nhân khác chủ nghĩa vị kỷ như thế nào?
Khi đọc tới đây, chắc có một số người sẽ hỏi rằng: nếu ai cũng muốn mình phát huy tối đa thế mạnh của mình thì chắc chắn sẽ không thể nào tránh khỏi chuyện kẻ mạnh sẽ chèn ép thậm chí triệt tiêu kẻ yếu hơn mình để chiếm thể độc tôn. Cho dù điều đó không xảy ra đi nữa thì chắc chắn một điều những kẻ không tự lo cho bản thân mình được như người già yếu, người tàn tật sẽ bị bỏ rơi vì trên thực tế họ không thể nào đóng góp nhiều cho xã hội hay tự nuôi sống bản thân họ. Những mảnh đời bất hạnh cơ nhỡ trong xã hội sẽ ra sao khi không ai quan tâm đến họ?
Đúng vậy, chủ nghĩa cá nhân nếu chỉ dừng ở những đặc điểm kể trên thì không thể được gọi là chủ nghĩa cá nhân đúng đắn mà phải gọi đó là chủ nghĩa vị kỷ: mọi người bất chấp tất cả để làm lợi cho bản thân mình mà không màng tới sự sống chết của đồng loại. Tuy nhiên chủ nghĩa cá nhân khác chủ nghĩa vị kỷ ở những đặc điểm sau.
1. Chủ nghĩa cá nhân không cho phép việc vì lợi ích cá nhân mà xâm phạm lợi ích của người khác. Hiểu đơn giản nhất là bạn làm gì ở nhà bạn thì đó là chuyện của bạn, nhưng bạn không được làm phiền hàng xóm vì họ cũng có những lợi ích riêng tư cần được tôn trọng. Bạn có thể không cảm thấy mệt và muốn hát karaoke giải trí lúc 1 giờ trưa hay nửa đêm, nhưng anh phải hiểu rằng hàng xóm bạn cần phải nghỉ ngơi và họ không muốn nghe bạn hát. Giải pháp tốt nhất là anh đóng cửa lại, mở volume vừa đủ thế nào đó để hàng xóm không bị phiền.
2. Chủ nghĩa cá nhân tôn trọng và bảo vệ những quyền riêng tư của cá nhân nếu nó không ảnh hưởng trực tiếp tới quyền riêng tư của cá nhân khác hoặc lợi ích chung của xã hội. Ví dụ, bạn ăn mặc như thế nào, để đầu tóc như thế nào, thích ăn gì đó là quyền riêng tư của bạn. Bạn là gay là les, da đen hay da vàng, theo đạo Hồi, đạo Phật hay đạo Cơ Đốc hay không có tín ngưỡng thì bạn vẫn phải được đối xử công bằng như những người khác vì những điều đó của bạn không gây hại cho xã hội và không gây hại cho người khác. Người nào cố tình cản trở hoặc cấm đoán đều sẽ bị xử lý theo pháp luật.
4. Chủ nghĩa cá nhân khuyến khích sự đóng góp cho xã hội và giúp đỡ những trường hợp bất hạnh không có khả năng tự lo cho bản thân mình. Vì những cá nhân nổi trội sẽ tạo ra được thặng dư vật chất, những thặng dư này sẽ được đóng góp theo hướng bắt buộc thông qua thuế và tự nguyện thông qua hình thức các quỹ xã hội và các hoạt động thiện nguyện. Điều này đảm bảo hầu hết mọi người trong xã hội được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất trong tháp nhu cầu Maslow (ăn, ở, giáo dục căn bản). Những đóng góp và cống hiến cho xã hội sẽ được ghi nhận và tưởng thưởng để đảm bảo việc đóng góp này được tiếp tục thực hiện trong tương lai. Đồng thời những sự tưởng thưởng và ghi nhận của một cá nhân đối với xã hội cũng chính là cách thỏa mãn được những nhu cầu cao hơn của con người trong tháp Maslow: nhu cầu được xã hội công nhận và tôn trọng thông qua những đóng góp cho cộng đồng.
III. Làm thế nào để giúp con phát huy toàn diện bản thân mình để có thể tự lập?
Một trong những vấn đề mà nhiều bậc phụ huynh Việt Nam thường hay than phiền về những đứa con cái tuổi thành niên của mình là: “Con tôi tới từng tuổi này mà còn chưa biết tự lo cho bản thân, cái gì cũng phải có cha mẹ lo cho mới được!” Tuy là than phiền nhưng bên trong lời than phiền ấy vẫn ẩn chứa sự tự hào rằng mình đã làm tốt bổn phận bảo bọc con của một đấng sinh thành. Và mặc dù kết quả là con tôi không chịu trưởng thành nhưng đổi ngược lại là nó rất ngoan ngoãn và không dám cãi lời. Chính sự mâu thuẫn trong tư tưởng đó đã khiến cho nhiều người không dám để cho con tự lập mà luôn tìm cách biện minh cho sai lầm này rằng đó là thương con. Việc thương con bằng cách bảo bọc quá đáng không cho con được tự do phát triển và trưởng thành vô tình lấy đi tinh thần độc lập và bản lĩnh của con bạn và thay vào đó bằng tính vị kỷ và dựa dẫm khiến con bạn luôn là những đứa trẻ không bao giờ lớn.
Một mâu thuẫn nội tại lớn nữa mà cha mẹ Việt Nam hay hình thành trong sự kỳ vọng đối với con cái: chúng ta vừa muốn những đứa con của mình được độc lập và tự tin như trẻ con phương Tây nhưng không cam lòng khi con cái không chấp nhận sự sắp đặt của mình trên mọi phương diện mà đòi được sự độc lập đối với cha mẹ. Hai điều này không thể tồn tại song song với nhau: không có đứa trẻ nào vừa có thể tự tin độc lập ở ngoài đời nhưng về nhà lại răm rắp nghe lời cha mẹ được. Hay nói một cách khác, con cái không thể tự lập nếu chúng không được tôn trọng và bị kìm hãm cái tôi chính đáng.
Làm cha làm mẹ, đôi khi chúng ta phải biết chọn lựa đúng đắn giữa hai con cách nuôi dạy con cái và lựa chọn đó phụ thuộc vào cách nhìn của chúng ta về lợi ích lâu dài của con cái đó là sự trưởng thành toàn diện của chúng hay lợi ích cá nhân của mình muốn biến con thành một vật sở hữu riêng của gia đình và dòng họ mình. Nếu bạn vì sự trưởng thành toàn diện của con cái thì hãy thực hiện những điều sau với con:
1. Cho phép con được quyền nói lên ý kiến, suy nghĩ và lựa chọn của mình đối với những vấn đề của bản thân tùy theo từng độ tuổi và trình độ nhận thức. Nếu bạn cảm thấy rằng lựa chọn của mình tốt hơn của con bạn, hãy giải thích rõ ràng với con. Đừng ép buộc con cái tất cả đều phải theo ý mình chỉ vì mình là cha mẹ chúng.
2. Cho phép con đóng góp ý kiến vào những quyết định lớn của gia đình nếu những quyết định đó có liên quan tới con cái (chuyển nhà, chuyển trường, có em…). Bạn có quyền không đồng ý với ý kiến của con nhưng bạn phải tỏ ra tôn trọng lắng nghe và giải thích rõ ràng vì sao ý kiến của con không được chấp nhận. Việc tập cho con có ý kiến đối với những quyết định trong gia đình không chỉ là tôn trọng con mà còn tập cho con tinh thần trách nhiệm đối với việc chung.
3. Chịu khó lắng nghe những tâm sự của con cái và đưa cho con những chọn lựa thay vì quyết định giùm chúng hoặc bỏ mặc con tự quyết định. Sự tự lập của con cái nếu muốn đi đúng hướng phải có sự chia sẻ và hướng dẫn của cha mẹ qua từng giai đoạn chứ không phải là bỏ mặc để tự chúng phát triển theo ý của mình.
4. Cho phép con có không gian riêng tư và tôn trọng sự riêng tư của con cái theo từng độ tuổi. Các bé ở tuổi dậy thì đặc biệt cực kỳ nhạy cảm khi sự riêng tư của mình bị người khác xâm phạm và có thể phản ứng một cách khá tiêu cực nếu điều đó xảy ra. Đồng thời tập cho con những kỹ năng tự chăm sóc cho bản thân mình tùy theo lứa tuổi.
5. Quan sát và lưu ý những năng khiếu hoặc sở thích đặc biệt của con để khuyến khích bé phát huy. Đồng thời cũng chú ý đến những sở đoản của bé để từ đó giúp bé khắc phục nhưng không ép buộc bé phải giỏi tất cả mọi thứ cho bằng bạn bằng bè. Đừng so sánh con bạn với con nhà người ta.
6. Hãy dạy cho con bạn lòng trắc ẩn, sự cảm thông và chia sẻ nếu chúng có điều kiện hơn người khác. Nếu con bạn giỏi hơn người khác, hãy dạy con cách khiêm tốn và sự nhẫn nại. Đừng tập cho con mình tính ích kỷ, tự cao và coi thường người khác.
7. Điểm số và thành tích trong trường là quan trọng nhưng không phải là tất cả. Bên cạnh thành tích học tập, con bạn cần có những kỹ năng sống, kỹ năng tự chăm sóc cho bản thân mình, kỹ năng giao tiếp…Đừng bắt con tập trung hết thời gian vào việc học để lấy thành tích mà bỏ quên những kỹ năng thiết yếu đó.
8. Hãy làm gương tốt cho con bằng cách sống văn minh, lịch sự, tôn trọng quyền tự do của người khác và tôn trọng những nguyên tắc ứng xử cộng đồng. Cách cư xử của con cái chịu ảnh hưởng rất lớn từ cách cư xử hằng ngày của cha mẹ chúng.
9. Đừng đặt cho con những bổn phận đã lỗi thời về chữ hiếu với cha mẹ hoặc với dòng họ. Con bạn sinh ra không phải là để gánh vác những điều mà người lớn đặt sẵn cho nó mà hãy để con bạn lựa chọn con đường của riêng mình miễn là con đường đó không trái với pháp luật và đạo đức của con người.
10. Đừng quên dạy con rằng cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi chúng ta biết cho đi bằng cách góp phần cống hiến cho xã hội và cộng đồng, giúp đỡ những người khác chứ không phải là sống ích kỷ giành hết mọi thứ tốt đẹp về cho mình.



