Share on facebook

Người Sài Gòn Thời 8X Đi Xem Xi- Nê

Có thể bạn quan tâm

Nói đến việc xem phim ngoài rạp, giới trẻ Sài Gòn thế hệ 9x-10x thường nghĩ ngay đến những cụm rạp hiện đại và sang trọng như Cinemax, CGV, Galaxy với nhiều phòng chiếu máy lạnh, ghế nệm, màn ảnh cực rộng với độ phân giải cao nằm trong các khu trung tâm mua sắm sầm uất như Vạn Hạnh Mall hay Lotte Mart. Nhưng những rạp chiếu phim như vậy chỉ xuất hiện ở Sài Gòn từ nửa cuối thập niên 1990 trở đi với rạp chiếu phim đầu tiên là Cinebox trên đường Lý Chính Thắng, quận 3. Tuy nhiên, những rạp chiếu phim ở Sài Gòn ngày xưa tôi đi xem khi còn là một cậu học sinh cấp một thì hoàn toàn khác hẳn.

Người Sài Gòn thời tôi còn nhỏ ít khi dùng chữ “đi xem phim” lại càng không nói “đi xem chiếu bóng” mà thường nói là “đi coi xi nê” hay “đi coi phin” và gọi rạp chiếu phim là “rạp xi nê” theo thói quen từ trước năm 1975. Hầu hết những rạp chiếu phim ở Sài Gòn trước năm 1975 sang tới thập niên 1980 đều vẫn còn hoạt động mặc dù chất lượng phòng chiếu theo thời gian đã bị xuống cấp và không có tiền để tu sửa lại trong thời bao cấp. Tuy nhiên, ở cái thời phương tiện giải trí duy nhất của cả xóm là chiếc TV trắng đen thì các rạp xi nê cũ kỹ đó là quả thực là một thiên đường rất hấp dẫn, nhất là đối với những người trẻ tuổi.

Người Sài Gòn thời thập niên 1980-1990 xem phim gì ngoài rạp?

Phim chiếu rạp thời thập niên 1980 hầu hết đều là phim nhựa của các nước xã hội chủ nghĩa, nhiều nhất vẫn là phim Liên Xô (cũ) và thỉnh thoảng có phim của Ba Lan, Đông Đức và Tiệp Khắc. Các pano quảng cáo phim thời đó được họa sĩ vẽ bằng sơn trên những tấm vải bạt khung vuông và được gắn trên nóc rạp vừa để trang trí vừa để giới thiệu phim mới không khác gì thời trước năm 1975 cho lắm. Phim Liên Xô thời đó rất ăn khách đặc biệt là trẻ em vì phần lớn là các phim thần thoại hoặc phim thiếu nhi có nội dung vui nhộn hấp dẫn, lại còn là phim màu và kỹ xảo khá bắt mắt. Còn phim Đông Đức và phim Tiệp Khắc tuy cũng là phim màu nhưng chủ yếu là phim xã hội nên kén người xem hơn. Được cái phim Tiệp Khắc và Đông Đức khá bạo so với phim Liên Xô, thường có cảnh hôn và cởi nên thanh niên thích rủ nhau đi xem, mặc dù chưa chắc gì đã thích nội dung phim.

Phim Việt Nam thời đó cũng được chiếu khá nhiều nhưng không ăn khách cho lắm vì phần lớn là phim trắng đen và đậm tính tuyên truyền chính trị như “Mùa nước nổi”, “Ông Hai Cũ”, “Hòn Đất” (phim màu) nên không được lòng người Sài Gòn vốn vẫn còn rất lưu luyến với quá khứ vàng son thuở trước. Tuy nhiên có hai bộ phim Việt Nam thời đó đã trở thành cơn sốt ở Sài Gòn đó là bộ phim “Biệt Động Sài Gòn” do Thương Tín đóng và bộ phim “Ván Bài Lật Ngửa” do Nguyễn Chánh Tín đóng vai chính khiến tên tuổi của hai diễn viên chính tên Tín nổi như cồn. Câu nói cửa miệng của quý cô quý bà Sài Gòn thời đó để nói về “trai đẹp” là: Đẹp trai như Nguyễn Thành Luân (nhân vật do cố diễn viên Nguyễn Chánh Tín thủ vai trong bộ phim Ván Bài Lật Ngửa) cũng đủ chứng tỏ được độ “hot” của bộ phim Ván Bài Lật Ngửa ở Sài Gòn là như thế nào.

Khi khối Đông u và Liên Xô khủng hoảng và sụp đổ, nguồn phim nhựa của các nước này cung cấp cho Việt Nam cũng không còn nên các rạp chiếu phim màn ảnh rộng dần dần chuyển sang hình thức chiếu phim bằng băng video để tiếp tục duy trì hoạt động. Người dân Sài Gòn bắt đầu rỉ tai nhau về những bộ phim Mỹ được các thủy thủ tàu viễn dương mang về như người hùng cơ bắp Rambo hay Người Máy Hủy Diệt (Terminator) cũng như những bộ phim kungfu Hong Kong với những màn đấu võ và bắn súng đầy hấp dẫn và kể cả những bộ phim tình cảm có những cảnh “nóng bỏng” mà người thời đó hay gọi là phim “con heo” hay phim “chăn nuôi”. Tuy nhiên, tại thời điểm này, hầu hết phim Mỹ và phim Hong Kong ở dạng băng từ video đều là phim “ngoài luồng”, có nghĩa là phim không được Sở Văn Hóa & Thông Tin cấp giấy phép trình chiếu, nên không thể công khai chiếu ở các rạp chiếu phim được. Thế là các chủ rạp phim đã nghĩ ra một chiêu “treo đầu phim nhựa, bán thịt video” bằng cách bên ngoài rạp luôn để bảng hiệu giới thiệu một phim nhựa nào đó của Việt Nam hay một bộ phim nào đó đã được cấp phép để che mắt nhưng ngay tại quầy vé luôn có một tấm bảng kiểu bảng đen của học sinh ghi tựa đề thật của bộ phim “ngoài luồng” được chiếu ngày hôm đó. Rạp nào có “bảo kê” của văn hóa phường thì có thể chiếu những phim này vào những suất chiếu chính vào buổi tối và đề bảng công khai bên ngoài, rạp nào không có “bảo kê” thì chỉ có thể chiếu phim video vào những suất ít người xem như vào 9:00 sáng hoặc 1:30 trưa và không được để bảng công khai.

Không chỉ có phim lẻ mà các rạp chiếu phim còn khai thác chiếu những bộ phim phim truyền hình dài tập của Hong Kong và Đài Loan ngày này sang ngày khác để thu hút những khán giả mê phim bộ. Lúc tôi học lớp 1, mỗi tối tôi đều đi theo dì Út ra rạp Văn Cầm gần nhà để xem hết bộ phim truyền hình Tây Thi do Đài Loan sản xuất. Bộ phim truyền hình “Tây Du Ký” kinh điển của Trung Quốc gắn liền với bao thế hệ người xem truyền hình Việt cũng được chiếu “chui” ngoài các rạp chiếu phim vào khoảng những năm 1987-1988 dưới dạng băng video và chiếu theo kiểu ngẫu nhiên vì rạp thuê có được tập phim nào thì sẽ chiếu tập đó chứ không thể nào xem hết trọn bộ từ đầu đến cuối được. Lúc đó tôi rất thích bộ phim Tây Du Ký vì từ nhỏ đã đọc truyện nên tôi không hiểu lý do tại sao một bộ phim hay như vậy mà lại không được chiếu công khai nhưng vì còn nhỏ quá tôi cũng không để ý cho lắm. Sau này tôi mới biết những năm 1987-1988 là năm giữa Việt Nam và Trung Quốc xảy ra xung đột về ngoại giao đặc biệt là sự kiện Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa và Trường Sa nên những gì liên quan tới “bọn bành trướng Bắc Kinh” đều bị cấm ở Việt Nam. Phải đến năm 1990, bộ phim này mới được lên sóng truyền hình một cách chính thức.

Đầu thập niên 1990 đánh dấu sự khởi sắc của dòng phim thị trường Việt Nam,thường được người dân Sài Gòn gọi với cái tên phim “mì ăn liền”, với các gương mặt Lý Hùng, Diễm Hương, Công Hậu, Việt Trinh, Lê Công Tuấn Anh… Đây là dòng phim nhựa của miền nam với cốt truyện đơn giản dễ hiểu xoay quanh những chuyện yêu đương, ghen tuông, chia tay, thù hận và đôi khi chen vào một số cảnh đấm đá hành động do ảnh hưởng phim Hong Kong để phù hợp với thị hiếu của đại đa số người bình dân. Mặc dù thời này đầu máy xem băng video đã khá thịnh hành và những bộ phim nhựa này thường được chuyển sang dạng video (dĩ nhiên là băng lậu) cho thuê ở các cửa hàng thuê băng video mọc lên khắp các hang cùng ngõ hẻm, người dân Sài Thành vẫn thích ra rạp để xem phim, ủng hộ nền điện ảnh nước nhà, đặc biệt là những dịp Tết có phim hài với các diễn viên hài từ làng kịch nói Sài Gòn như Thành Lộc, Việt Anh, Hồng Vân, Lê Vũ Cầu…tham gia. Từ năm 1996 trở đi, rất nhiều rạp phim cũ do quá xuống cấp không có kinh phí sửa chữa đã đóng cửa bán lại mặt bằng hoặc cho thuê lại mặt bằng để kinh doanh những ngành khác. Cho tới khi những cụm rạp chiếu phim hiện đại xuất hiện ở những năm 2000 thì các rạp chiếu phim cũ chính thức cáo chung, chấm dứt vai trò lịch sử của mình.

Một buổi chiếu phim ở Sài Gòn thập niên 1980 diễn ra như thế nào?

Quận Phú Nhuận thập niên 1980 vẫn còn khá nhiều rạp chiếu phim từ trước năm 1975. Nằm kế bên trường tiểu học Nguyễn Đình Chính trên đường Nguyễn Văn Trỗi lúc trước là rạp chiếu phim Phú Nhuận khá lớn. Còn vị trí của khách sạn Amara trên đường Lê Văn Sỹ ngày nay, đối diện với đình Ông Súng cũng từng là rạp chiếu phim Minh Châu. Nhà tôi lúc trước ở đường Cô Bắc, quận Phú Nhuận, ngay đầu đường là rạp xi nê Văn Cầm nên lúc nhỏ mỗi tối tôi thường được các dì dẫn ra rạp để xem phim. Tôi lúc đó quá nhỏ để biết giá vé xem phim mắc rẻ thế nào, nhưng theo tôi nghĩ thì chắc là rất rẻ vì hầu như tối nào tôi cũng được đi xem phim cả. Có nhiều phim tôi xem tới hai ba lần mà vẫn chưa thấy chán.

Những năm đầu thập niên 1980, rạp Văn Cầm thường chỉ chiếu một suất tối từ 7:00 đến 9:00. Đến khi phim video ra đời, rạp mới có thêm suất chiếu buổi trưa 1:30 đến 3:30 để bán thêm vé mặc dù suất chiếu này không có được mấy người xem. Thường thì bắt đầu từ 6:00 chiều rạp đã bắt đầu mở cửa để bán vé vì thời đó vé chỉ có thể mua trực tiếp tại quầy vé trước giờ chiếu. Tôi nhớ lúc đó nếu trẻ em dưới 6 tuổi, chưa vào lớp một thì khỏi phải mua vé mà ngồi chung ghế với người lớn nên mỗi lần dẫn tôi đi xem phim, dì tôi chỉ mua một vé cho tới khi tôi đi học lớp 1. Người bán vé ngồi bên trong một quầy vé có lưới sắt hoặc kính ngăn với người mua vé bên ngoài và mặc dù trước cửa quầy có dựng mấy hàng rào sắt để hướng dẫn người xem xếp hàng mua vé, đa số người xem phim lúc bấy giờ đều chen lấn giành giật và la lối om sòm chứ hiếm ai chịu đứng vào xếp hàng nên cảnh tượng ở quầy vé xem phim nhìn rất bát nháo. Tôi không biết tại sao người ta phải chen lấn giành giật vì có những lúc phim chiếu chỉ có chừng nửa rạp là có khán giả. Cũng không có chuyện người xem được chọn chỗ ngồi như các rạp chiếu phim bây giờ mà mua vé trúng chỗ nào thì ngồi chỗ nấy. Thật ra số ghế in trên vé là in cho có lệ vì thời đó rất ít khi người đi xem phim có ý thức ngồi đúng số ghế của mình mà cứ vào rạp trước đã rồi nhìn lên những hàng ghế trên xem ghế nào còn trống thì cứ thế mà chen lên ngồi.

Ghế trong rạp là loại ghế gỗ lớn có chỗ dựa lưng và gác tay được đóng cố định xuống đất còn phần để ngồi không được đóng cố định vào thân ghế mà chỉ bắt vít để khi người xem đứng dậy thì phần này sẽ tự bật lên và áp sát vào phía lưng ghế cho đỡ chiếm chỗ. Những chiếc ghế gỗ như thế này được không biết bao nhiêu thế hệ khán giả ngồi lên nên phần lớn đều đã tróc hết màu sơn nguyên thủy mà lên nước đen bóng và đặc biệt là rất nhiều rệp. Chuyện đi coi xi nê bị rệp cắn là chuyện thường ngày ở huyện và nhờ đó mà lũ rệp trong các rạp chiếu phim thời đó được nuôi cho mập tròn căng bóng bởi máu của người hâm mộ điện ảnh.

Từ 6:30 tối trở đi, rạp bắt đầu phát nhạc qua chiếc “ô pạc lưa” (loa cầm tay) gắn trên nóc rạp để thu hút khách tới xem. Phía trước rạp, đội quân bán hàng rong đã chuẩn bị sẵn sàng những gian hàng nhỏ của mình để mời khách. Thời đó không có popcorn kiểu Mỹ hay Coca Cola trong ly giấy mà chỉ có trà đá, xá xị đựng trong túi ni lông, miệng túi buộc cọng thun cắm ống hút, hạt dưa và loại bắp rang rẻ tiền mà mấy đứa trẻ nhà nghèo hay mua ăn hoặc người lớn mua về để…cúng cô hồn. Những thứ đồ ăn chơi khác cũng chỉ là mía ghim, cóc, ổi, xoài xanh và chùm ruột ngâm trong thứ nước vàng vàng xanh xanh gọi là nước cam thảo. Riêng những người bán thuốc lá thì có bán thêm kẹo cao su (người Sài Gòn gọi là xinh gôm do đọc trại từ chữ “chewing gum” mà ra) hiệu Doublemint màu xanh và Wrigley’s màu trắng có mùi bạc hà rất thơm hay xing gôm hiệu “con két” của Thái Lan ăn nhão nhoét và có vị ngọt gắt vị đường hóa học nhưng được cái là thổi được bong bóng cao su rất to hoặc có thể mút cho nổ tách tách rất vui tai. Thời đó người ta ăn kẹo cao su xong hiếm ai có ý thức tìm thùng rác mà bỏ vào đàng hoàng tử tế mà chủ yếu là trét ngay lưng ghế của người ngồi trước mặt hoặc trét dưới gầm ghế mình ngồi. Nhiều người chơi ác còn len lén trét lên…tóc của người xem phim trước mặt nhất là những cô gái tóc dài. Đã không ít cô gái đi xem phim với người yêu bị “dính chưởng” kẹo cao su lúc mải lo tâm sự mà về nhà phải cắt luôn mái tóc thề mà mình dày công nuôi dưỡng bao năm tháng.

Sau khi đưa tấm vé chiếu phim cho người soát vé xé cái “rẹt” rồi xả ngay xuống nền đất bên dưới, hai tấm màn bằng nhung đen nặng trịch phủ đầy bụi sẽ được vén lên để khán giả đi vào bên trong một không gian nồng nặc một thứ mùi tổng hợp được ủ từ mùi…nước tiểu bốc lên từ hai nhà vệ sinh gần cửa ra vào, mùi mồ hôi người và mùi thuốc lá. Thời đó các rạp chiếu phim không có quy định không được hút thuốc lá trong rạp nên khán giả nam cứ thế mà vô tư hút thuốc trong rạp và vất tàn thuốc lung tung dưới chân. Thứ mùi đặc trưng của rạp chiếu phim này được hai chiếc quạt khổng lồ được đặt trong hai chiếc lồng sắt lớn ở phía sau rạp thổi lên phía trước để phân phát đều cho những khán giả ở hàng ghế đầu. Hai chiếc quạt lớn này là điểm tụ tập của bà con khán giả giờ giải lao ra đứng hóng tí gió cho mát trước khi quay trở lại ghế để xem tiếp phần còn lại của bộ phim. Tiếng quạt ồn đến mức nếu đứng gần bạn khó có thể nghe người bên cạnh nói gì. Thời đó chỉ có những rạp chiếu phim lớn ở trung tâm Sài Gòn mới có hệ thống máy lạnh còn thì hầu hết những rạp chiếu phim nhỏ đều sử dụng loại quạt này để làm mát và những chiếc quạt thông gió gắn trên tường để lưu thông không khí. Cũng may là còn có những chiếc quạt thông gió, vậy mà khi ra khỏi rạp, đầu tóc quần áo của khán giả nào cũng “nồng nàn” mùi hương trong rạp như một bằng chứng để chứng minh với người nhà rằng mình vừa đi xem xi nê về.

Trước giờ chiếu phim vài phút, rạp sẽ tắt đèn và reng chuông để nhắc nhở mọi người ổn định chỗ ngồi. Rồi luồng ánh sáng trắng và tiếng tạch tạch khởi động của máy chiếu phim được đặt trong một buồng chiếu cao đặt ở cuối rạp đối diện với tấm màn ảnh bằng vải màu cháo lòng báo hiệu cho bạn biết rằng phim đang được lắp vô máy và chuẩn bị chiếu. Phim thời đó là phim nhựa lớn được đặt trong những chiếc hộp tròn bằng thiếc hoặc nhôm to như bánh xe Honda được gắn vào trục của máy quay đặt trong phòng chiếu ở cuối rạp để chiếu lên màn hình vải trắng đặt ở đầu rạp bằng một bóng đèn rất sáng (vì vậy mới gọi là “chiếu phim”). Một bộ phim 2 tiếng thường được phân ra thành hai phần đựng trong hai hộp nhôm đánh dấu A và B. Mỗi khi chiếu hết một phần, rạp sẽ cho khán giả nghỉ giải lao trong vòng 15 phút để nhân viên chiếu phim trên phòng máy được nghỉ ngơi và khán giả có thể đi vệ sinh trong hai nhà vệ sinh không hề…vệ sinh ở cuối rạp. Gần nhà vệ sinh là một chiếc tủ kem đựng yaourt bịch, siro nước đá bịch và kem cây cắm trên que tre hiệu “nhà làm”. Tủ kem này luôn luôn là nơi có sức hấp dẫn vô cùng to lớn đối với các khán giả nhí giờ giải lao.

Các rạp hát ngày nay trước khi chiếu phim thường có một đoạn trailer ngắn hài hước nhắc nhở khán giả tắt điện thoại hoặc chuyển sang chế độ rung và không cười nói quá lớn trong rạp nhưng thời những năm 1980 tuy không có điện thoại di động, nhưng việc cười nói ồn ào trong rạp hát là chuyện hết sức bình thường. Chẳng có ai nhắc nhở khán giả phải giữ im lặng trong lúc xem phim hoặc nếu như có nhắc nhở thì người ta cũng không thèm nghe. Khán giả trong lúc xem phim thời đó tha hồ cười nói bình luận om sòm mà không cần quan tâm tới người bên cạnh. Phim nhựa hay bị sự cố đứt phim phải dừng lại để nối hoặc đôi lúc rạp bị cúp điện nên phim bị gián đoạn giữa chừng. Nếu những sự cố này được xử lý trong vòng vài ba phút thì bà con còn chờ đợi được nhưng nếu kéo dài 5 phút, bạn sẽ nghe được bản đồng ca “Trả tiền đê!Trả tiền đê!” cùng với tiếng đập ghế rầm rầm của hàng trăm con người trong rạp cho tới khi phim được chiếu lại thì thôi. Thật ra, khán giả thừa biết là chuyện sự cố kỹ thuật ngoài ý muốn này nào phải là do thợ chiếu phim muốn và dĩ nhiên cũng không thể đòi được tiền vé nhưng bản đồng ca “trả tiền đê!” vẫn vang lên mỗi lần phim đứt như một điều không thể thiếu trong những lần đứt phim như vậy.

Nếu tính luôn 15 phút giải lao và giờ chiếu khoảng 2 tiếng đồng hồ thì thường những buổi chiếu phim kết thúc (hay theo cách gọi của người Sài Gòn lúc đó là “vãng tuồng”) vào khoảng 9:15. Đó là lúc đèn trong rạp bật sáng và khán giả lục tục kéo nhau ra về trong tiếng dập ghế ầm ầm và tiếng kéo dép loẹt xoẹt. Hầu hết khán giả của rạp Văn Cầm đều là “chòm xóm” với nhau trên đường Phan Đình Phùng hoặc từ trong hai đường hẻm Cô Bắc và Cô Giang ra nên mọi người đều đi bộ từ nhà ra rạp để xem phim rồi lại lội bộ về nhà khi xem phim xong. Nhiều người đi xem phim thường xuyên đến mức quen luôn mặt nhau trong rạp, ra vô kêu tên nhau í ới rất “tay bắt mặt mừng”. Mấy cô cậu choai choai và các bà nội trợ thì đi về theo nhóm thành từng nhóm, vừa đi về nhà vừa bàn luận về bộ phim vừa mới xem xong rất xôm tụ. Cũng có những cặp trai gái đi cạnh nhau vừa đi vừa thỏ thẻ tâm tình. Thời đó các cặp yêu nhau không bạo như bây giờ nên cũng lắm là chỉ nắm tay nhau chứ không có chuyện ôm ấp hôn hít nhau ngoài đường. Chợt nghĩ những cặp tình nhân nên duyên từ những buổi coi xi nê như thế này, giờ đã lên chức ông chức bà hết rồi. Liệu họ có kể cho con cháu mình nghe về những buổi hò hẹn trong rạp xi nê không nhỉ?

BHV English IELTS Team

Tags

Có thể bạn quan tâm