Những ngày tháng Sài Gòn bị phong tỏa nghiêm ngặt do lệnh giãn cách covid-19 theo nghị quyết 16, người dân thành phố ai cũng trải qua một khoảng thời gian dài điêu đứng vì khủng hoảng khi mọi sinh hoạt bình thường bỗng nhiên đều bị ngừng lại. Nhưng có lẽ khổ sở nhất là những người vô gia cư lang thang ngoài đường phố sống nhờ vào tình thương của những người qua đường và những người bán hàng rong, bán vé số hoặc đánh giày khi cuộc sống của họ đúng nghĩa với câu “chạy ăn từng bữa”. Khi hàng quán đóng cửa và không có ai được phép ra đường, nguồn thu nhập ít ỏi của họ cũng theo đó mà bị tước đoạt. Họ sẽ sống ra sao khi các nhà hảo tâm cũng không được phép đi phát quà cho người nghèo? Ngay khi có ít tiền dành dụm thì họ sẽ mua đồ ăn thức uống ở đâu khi toàn bộ chợ búa và quán xá đều đóng cửa? Nếu lỡ họ mắc phải covid-19, họ có được đưa vào các bệnh viện dã chiến hay bị bỏ mặc cho chết bờ chết bụi ở đâu đó? Có bao nhiêu người sẽ chết vì đói chứ không phải vì covid? Mỗi lần nghĩ tới những điều đó, lòng tôi lại cảm thấy nhói đau cho những kiếp người.
Từ khi còn rất nhỏ, tôi đã có ý thức về số phận những người nghèo khổ. Những lần được người lớn chở đi ăn đi chơi, nếu gặp người ăn xin hoặc bán vé số tới bàn xin tiền hoặc mời mua vé số mà bị từ chối, tôi đều có cảm giác tội lỗi dằn vặt trong lòng đến mức không còn muốn tiếp tục ăn hay chơi nữa. Có lần ba tôi chở tôi đi cửa hàng Bách Hóa Tổng Hợp (Thương xá Tax) và mua cho tôi một chiếc xe tăng mà tôi rất thích. Lúc đứng chờ ba tôi đi lấy xe, tôi thấy một đứa bé đi móc rác trạc tuổi mình đứng nhìn món đồ chơi với vẻ rất thèm thuồng. Không hiểu sao tôi lại đưa luôn chiếc xe cho thằng bé mặc dù biết thế nào cũng sẽ bị ba la. Khi ba tôi lấy xe ra hỏi đồ chơi đâu, tôi không dám nói mình đã cho thằng bé đó mà bịa ra câu chuyện là tôi bị giật mất đồ chơi và bị ba tôi chửi cho một trận vì cái tội ngu có đồ mà không biết giữ. Tuy nhiên trong lòng tôi lại cảm thấy vui vì mình đã làm được một điều tốt. Câu chuyện này tôi đã giữ kín gần 40 năm trời, trước giờ chưa từng nói cho ai nghe nhưng tôi vẫn nhớ rất rõ ánh mắt của đứa bé được tôi tặng món đồ chơi ngày hôm ấy. Có lẽ nó cũng không tin rằng có một người không quen biết lại tặng món đồ chơi mới mua cho mình.
Ký ức đầu tiên của tôi khi còn rất nhỏ về những người nghèo khổ bất hạnh là một ông già mù tên Giỏi hay đi bán vé số vào buổi chiều trong hẻm nhà tôi. Nhiều người ác miệng chọc ghẹo ông rằng sao tên Giỏi mà dở ẹc vậy, ông chỉ cười cười, nụ cười méo xệch với hàm răng cái còn cái mất. Nhà tôi không ai chơi vé số nhưng thỉnh thoảng vẫn mua cho ông vài tờ gọi là ủng hộ, thậm chí có lúc còn đưa dư tiền cho ông, không cần thối lại. Nhưng kiếp sống của một người già mù lòa bán vé số dĩ nhiên nhiều tủi nhục cơ cực hơn là may mắn. Những buổi trời mưa, nhìn ông đứng co ro bên hiên nhà một ai đó cố gắng che cho những tờ vé số đừng ướt mà nhói lòng. Có những lúc bị bọn thanh niên mất dạy giật vé số chạy, ông ngồi dựa lưng vào góc tường khóc rấm rứt, miệng lẩm bẩm gì không ai hiểu. Cũng may là bà con chòm xóm những lúc như vậy thương tình gom góp tiền cho ông có đủ để trả cho đại lý vé số và cho ông chén cơm đỡ lòng. Bẵng đi một thời gian, không thấy ông Giỏi bán vé số trong khu hẻm nhà tôi nữa. Có người nói ông chết rồi. Một cái chết lặng lẽ không ai biết tới. Thế là xong một kiếp người khổ đau.
Ông Giỏi không phải là người mù duy nhất trong xóm tôi thời đó. Ngoài ông ra còn có một người đàn ông mù khác hát cải lương xin ăn. Ông chỉ hát một bài vọng cổ duy nhất trong tuồng “Nửa Đời Hương Phấn” với giọng hát khàn đặc không còn hơi hám. Mỗi lần nghe tiếng gậy trúc khua lóc cóc trên đường như hòa nhịp cho câu hát: “Chị hai đây là chị ruột của em.” từ xa, tôi biết là ông đang đi ngang qua nhà mình và tôi lại xin bà ngoại tiền lẻ để bỏ vào cái lon sữa bò trên tay ông. Mặc dù ông không thấy đường nhưng lần nào cho ông tiền, tôi cũng bỏ vào lon bằng hai tay vì cô giáo trong lớp dạy khi đưa vật gì cho người lớn phải đưa bằng hai tay. Trong mắt tôi, ông là một người lớn như bao người lớn khác chứ không phải là một người ăn xin nên tôi vẫn thể hiện sự tôn trọng đối với ông. Lần nào không có tiền lẻ để cho ông, tôi lại…tìm một góc kẹt nào đó trong nhà để chui vào đợi tiếng hát của ông mù đi xa rồi mới dám ra chơi vì cảm thấy mình có lỗi với ông mặc dù tôi cũng không biết đó là lỗi gì. Đối với tôi, không có tiền cho một người ăn xin thực sự là một điều rất khó chịu. Sau này mỗi lần dừng đèn xanh đèn đỏ ở một ngã tư nào đó mà thấy những đứa trẻ gầy đen tay bế một đứa bé ngủ gà gật trên tay đi xin tiền, tôi lại có cảm giác tội lỗi tương tự mỗi lần xua tay từ chối. Mặc dù biết những đứa trẻ này được đám người lớn ở gần đó chăn dắt để ăn xin mang tiền về và nếu cho tiền những đứa trẻ ăn xin này là góp phần tiếp tay cho bọn người xấu, tôi vẫn cảm thấy áy náy trong lòng.
Tuy nhiên, không phải người ăn xin nào cũng mang lại cho tôi cảm giác thương cảm như ông mù hát vọng cổ xin ăn. Thời tôi còn nhỏ, tôi rất sợ những người thương phế binh chống nạng đi bán nhang vì họ thường xông thẳng vào nhà và đứng chặn ngay cửa để mời mua nhang kiểu nửa mời nửa ép cho tới khi nào người trong nhà chịu mua hoặc lớn tiếng đuổi đi thì thôi. Còn không thì họ sẽ đứng đó rất lâu và nhìn chằm chằm vào những người ở trong nhà. Họ để tóc dài râu ria không cạo và mặc áo sơ mi phanh ngực còn chiếc quần tây thì kéo cao để lộ cái chân cụt tới tận đầu gối trong rất đáng sợ. Hễ thấy nhà nào có bàn thờ phật là họ sẽ xông vô để mời mua nhang cho bằng được bất kể là trong nhà còn nhang hay không. Nghe người lớn có người nói họ là những người thương binh “chế độ cũ” nhưng cũng có người nói họ là bộ đội đi đánh Khmer đỏ ở chiến trường Tây Nam bị thương tàn phế nên mới đi bán nhang kiếm sống. Nhưng cho dù là người lính phe nào đi nữa thì trước khi bị mất một phần thân thể, họ chắc cũng đã có một thời trai trẻ, cũng từng có những ước mơ hoài bão, có thể có người yêu hoặc gia đình. Và giờ đây, họ chỉ còn lại tấm thân tàn tật cố gắng kiếm sống qua ngày bằng việc bán nhang. Việc đường đột xông vào nhà người khác vừa nài nỉ vừa ép mua như vậy để bị người trong nhà nhìn bằng cặp mắt coi thường và đuổi đi với những lời lẽ nặng nề chắc họ cũng không muốn như vậy nếu không vì hai bữa cơm chan nước mắt. Họ đáng thương hơn đáng ghét. Vì thế, mặc dù họ mang đến cho tôi cảm giác bất an mỗi lần sấn sổ vào nhà để bán nhang, tôi cũng không bao giờ dùng những lời lẽ nặng nề hoặc thái độ khinh thường để xua đuổi họ. Chẳng qua họ cũng chỉ vì miếng cơm manh áo mà thôi. Mua hay không là quyền của mình, cần chi phải nặng lời với những mảnh đời đã quá cơ cực và tủi nhục ấy.
Những người lang thang kỳ lạ
Phần lớn những cảnh tượng người nghèo khổ vô gia cư ở Sài Gòn đều khiến tôi cảm thấy xót xa thương cảm. Nhưng cũng có nhiều trường hợp khiến tôi cảm thấy hết sức tò mò vì hiếu kỳ. Ngày còn học cấp hai ở trường Ngô Tất Tố trên đường Đặng Văn Ngữ, quận Phú Nhuận, tôi thỉnh thoảng hay tình cờ bắt gặp một ông già nhỏ thó, tóc bạc dài xõa ngang vai ăn mặc rách rưới và treo đủ thứ lủng lẳng trên vai nửa giống một người điên nửa giống một người kiếm sống bằng nghề móc bọc nilon. Ông thường xuất hiện trên đường Trương Quốc Dung vào những buổi trưa nắng và thường đi loanh quanh khu vực nhà của nữ nghệ sĩ Kim Cương. Có lúc tôi thấy ông ngồi bệt ở trước cửa căn biệt thự của nghệ sĩ Kim Cương, cũng có lúc tôi thấy cánh cổng đó hé mở ra và người giúp việc đứng trước cửa nói gì đó với ông với một thái độ khá lịch sự chứ không phải theo kiểu những người làm cậy oai chủ quát nạt đuổi một người vô gia cư đang ngồi trước cửa nhà đi. Có lần tôi thấy ông quơ cây gậy rượt theo đuổi đánh đám trẻ mất dạy chọc ghẹo ông miệng nói nguyên một tràng tiếng Pháp. Cũng có lúc tôi thấy có một người có vẻ trí thức ăn mặc lịch sự ngồi bệt bên đường cùng ông nói gì trông rất say sưa và lúc này ông không có nét gì giống một người điên cả mà ra dáng một thiền sư hay một nhà hiền triết. Ông già nửa điên nửa tỉnh ấy khiến tôi liên tưởng tới hình ảnh của hòa thượng Tế Điên, một nhân vật truyền kỳ rất nổi tiếng của Trung Quốc mà cả phim điện ảnh lẫn phim truyền hình Hong Kong thời đó hay khai thác. Sau này tôi mới biết ông chính là “trung niên thi sĩ” nổi tiếng Bùi Giáng, một trong những hiện tượng văn học nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975 và là một trong những người có học thức hết sức uyên bác và cũng là người có mối tình tuyệt vọng với nữ nghệ sĩ Kim Cương.
Thời sinh viên, trong những buổi chiều rong ruổi khu Tân Định tôi thường thấy một bà già gầy gò ăn mặc lam lũ đẩy chiếc xe đạp mini lầm lũi đi rất nhanh trong dòng xe cộ tấp nập giờ tan tầm. Điều gây chú ý là ngồi trên yên sau của chiếc xe đạp là một người khô quắt queo như một cái xác ướp trong tư thế gần như bất động với gương mặt cúi gằm và giấu kín trong phần mũ trùm đầu của một chiếc áo gió cũ. Nếu không để ý thấy hai bàn tay của nhân vật kỳ lạ ấy luôn bám chặt vào yên trước của xe đạp thì tôi còn tưởng đó là một hình nhân bằng gỗ chứ không phải là người sống vì chưa bao giờ tôi thấy người đó đổi tư thế hay nói chuyện gì với người đàn bà đẩy xe đằng trước. Tôi đoán họ là hai mẹ con và người con bị một chứng bệnh kỳ lạ hoặc dị tật nào đó khiến gương mặt bị biến dạng nên phải che kín mặt như thế mỗi khi ra đường. Có lần hiếu kỳ, tôi cố tình chạy xe sát gần để cố tình nhìn cho được gương mặt bí ẩn khuất giấu sau chiếc mũ trùm của áo khoác nhưng chưa bao giờ nhìn thấy được. Tôi không biết họ làm nghề gì để mưu sinh vì trên chiếc xe đạp ấy không có treo bán bất cứ một món đồ gì và tôi chắc rằng họ cũng không phải là những người xin ăn kiếm sống vì dáng vẻ đẩy xe của người mẹ có vẻ như đang trốn chạy sự hiếu kỳ của mọi người hơn là cầu xin sự thương hại. Nhiều lúc tôi muốn cho họ ít tiền nhưng lại sợ không biết làm như vậy có làm tổn thương lòng tự trọng của họ hay không vì biết đâu họ không phải là những người xin ăn.
Bẵng đi hơn mười năm, tôi qua Mỹ du học rồi về Việt Nam đi làm rồi thay đổi công việc và chỗ ở nhiều lần nên cũng không còn nhớ tới hình ảnh hai mẹ con kỳ lạ đó nữa. Nhưng một buổi chiều nọ cũng vào khoảng giờ tan tầm khi đang đi trên kè Hoàng Sa gần khu ông Tạ, tôi bất chợt lại bắt gặp hình ảnh của người mẹ già quắt queo đẩy chiếc xe đạp chở đứa con như xác ướp bất động ngồi ở yên sau len lỏi trong dòng xe cộ đông đúc trên đường phố. Có lẽ họ đã “xuyên không” từ quá khứ đi tới hiện tại vì từ quần áo, chiếc xe đạp, chiếc áo khoác có nón trùm kín mặt và cả cái dáng người đẩy xe lao nhanh tới phía trước hầu như không có một chút gì thay đổi cả. Về sau tôi nhiều lần gặp lại hai mẹ con họ cũng ở đoạn đường đó vào giờ đó cho tới ngày tôi thay đổi chỗ dạy học nên không còn đi đoạn đường đó nữa. Không biết có khi nào chừng chục năm nữa, tôi lại tình cờ bắt gặp họ xuất hiện ở đâu đó nữa với bộ dạng “bất biến” như vậy nữa hay không? Họ là những người sống hay là những bóng ma? Họ có thực hay chỉ là những ảo giác mà chỉ có tôi nhìn thấy? Tôi thực sự không biết. Tới bây giờ hai mẹ con kỳ lạ trên chiếc xe đạp mini đó vẫn là một bí ẩn không lời giải với tôi.
Sài Gòn có bao nhiêu người nghèo khổ vô gia cư vất vả mưu sinh từng bữa? Chỉ cần chúng ta chịu để ý một chút, ta sẽ thấy những mảnh đời cơ cực vẫn còn rất nhiều xung quanh ta bên ngoài những tòa nhà cao tầng hiện đại, những nhà hàng sang trọng và những khu mua sắm đắt đỏ. Bạn có thể không quan tâm tới họ nhưng đừng xúc phạm hoặc chà đạp lòng tự trọng của họ. Nếu không cho tiền hoặc mua giúp họ tờ vé số, gói tăm bông thì cũng từ chối một cách nhẹ nhàng lịch sự, đừng khiến họ cảm thấy tổn thương vì bị coi thường. Dù sao họ cũng là những kiếp người, những kiếp người đầy đau khổ.