Share on facebook

Tản mạn Trà người Hoa

Có thể bạn quan tâm

Các tiệm bán hủ tíu mì hay đồ điểm tâm trong Chợ Lớn hay để trên bàn một ấm trà bằng nhôm, nắp ấm được nối vào quai ấm bằng một sợi dây vải hoặc nilon và bốn cái ly thủy tinh nhỏ trơn trên một cái đĩa để người uống có thể giải khát sau khi ăn xong. Trà trong ấm cũng chỉ là thứ trà rẻ tiền được ướp rất đậm nên chỉ cần bỏ một nhúm để nấu một ấm lớn rồi chiết ra từng ấm nhỏ, mùi trà vẫn rất đậm đặc dù nước trà có màu vàng nhạt. Hầu như quán điểm tâm hay hủ tiếu mì bình dân nào ở Chợ Lớn, thậm chí các quán cafe cóc đều sử dụng đúng loại trà này để pha cho khách nên nó còn được gọi tên là “trà tiệm nước”. Hầu như không ai mua loại trà này về nhà để tiếp khách cả. Mà nghĩ cũng lạ, không như người Việt hay pha trà mời khách tới nhà chơi, tôi hầu như ít khi thấy những nhà người Hoa mà tôi biết tiếp khách bằng trà hay có bộ ấm chén để trên bàn sa lông ngoài phòng khách thường kêu cà phê về đãi khách còn trà ngon chỉ dành để thưởng thức một mình lúc rảnh rỗi hoặc đãi bạn tri kỷ mà thôi.
Lúc còn nhỏ được chở đi ăn hủ tíu mì ở các tiệm nước ở Chợ Lớn, tôi hay để ý tới cách uống trà của người lớn. Bác tôi hay có thói quen đổ một ít nước trà trong bình vào ly lắc lắc vài cái để tráng sơ ly rồi đổ đi, sau đó mới rót trà vào uống. Nhiều ông già người Hoa còn có thói quen hớp một ngụm nhỏ nước trà súc miệng rồi nhổ vô tô mì đã ăn xong rồi ngậm cây tăm bên khóe miệng nhìn khá…mất vệ sinh. Thói quen súc miệng bằng trà này, cũng như thói quen đổ cà phê sữa ra đĩa uống hoặc chấm dầu cha quẩy vào cà phê sữa của người Hoa ở Chợ Lớn giờ gần như không còn thấy nữa. Cũng đúng thôi, tôi gần 40 tuổi thì mấy “a xúc, a pac” đó cũng ra người thiên cổ hay ít nhất cũng là “a dè, a cúng” (ông nội, ông ngoại) cả rồi. Còn giới trẻ thì chắc không ai muốn kế tục “truyền thống” đó.
Những chỗ sang hơn như hoa viên Phú Thọ thì sử dụng bình trà và chung trà làm bằng sứ trắng nhìn lịch sự hơn nhiều. Trà dùng ở những nơi này cũng là trà cao cấp hơn như Ô Long, Phổ Nhĩ hoặc Long Tỉnh và tất nhiên những bình trà như vậy đều có tính tiền chứ không miễn phí như “trà tiệm nước” bình dân. Được cái là khi gọi một bình trà cùng với điểm tâm, mỗi lần hết nước, thực khách chỉ cần khoát tay một cái là phổ ky lại mang ra ấm nước sôi để châm nước vào bình cho ra trà để khách tiếp tục uống.
Người Hoa uống trà hầu như không ướp các loại hương khác như hoa sen, sói, nhài, ngâu như trà Việt mà thường uống trà mộc để giữ được mùi vị nguyên thủy của trà. Vị trà cũng ít đắng hơn trà Việt. Khi đi ăn điểm tâm, tôi thích gọi ấm trà Thiết Quan m hoặc Bích Loa Xuân nước xanh nhạt vị hơi chát để uống cho dễ tiêu hóa. Còn không thì một ấm “pủ lỷ” pha thêm hoa cúc phơi khô gọi là “cúc pủ” với nước nâu đậm với hậu ngọt nhẹ thoang thoảng mùi hoa cúc cũng rất tuyệt. Trà pủ lỷ loại ngon là loại đựng trong vỏ quýt phơi khô, càng để lâu càng quý. Tết vừa rồi tôi được một học trò cũ tặng cho một hộp pủ lý vỏ quýt này để uống dần rất thú.
Người Hoa ở Chợ Lớn, đặc biệt là người Tiều (Triều Châu) và Phúc Kiến thích ăn gì đó ngọt ngọt khi uống trà. Người ta thường nấu chảy đường cát rồi bỏ đậu phộng rang hoặc mè đen vào, chờ đông lại rồi cắt thành từng thỏi nhỏ dùng để nhâm nhi với trà, tiếng Tiều gọi là “tẻ léo” (trà liệu), có nghĩa là vật liệu dùng để uống trà. Người Việt đọc “tẻ léo” trại ra thành “thèo lèo”và dùng nó để cúng đưa ông Công ông Táo về trời ngày 23 tháng chạp mỗi năm. Món bánh pía (bánh lột da) với nhân đậu xanh trứng muối cũng rất được ưa chuộng để ăn khi uống trà. “Pía” là phát âm Triều Châu chữ “bỉnh” có nghĩa là “bánh” trong tiếng Việt (người Quảng Đông đọc là “pẻng”). Người Việt không biết nên gọi bánh lột da là bánh “pía” có nghĩa là “bánh…bánh” lâu rồi thành quen. Bánh trung thu cũng là một thứ “trà liệu” rất …hao trà. Có một thời gian, tôi rất thích ăn bánh pía hay bánh trung thu và uống trà. Với một bình trà nóng, tôi có thể nhâm nhi một lúc hết 2 cái bánh pía hoặc một cái bánh trung thu nhân hạt sen hoặc đậu xanh hai trứng. nhưng sau này vì lý do sức khỏe, tôi đã bỏ thói quen “ngọt ngào” này và nếu có thèm lắm thì cũng chỉ dám ăn ¼ cái bánh trung thu hoặc nửa cái bánh pía mà thôi.
Ngoài các loại trà được làm bằng lá trà phơi khô, từ “trà” đối với người Hoa còn dùng để chỉ các loại thức uống được nấu từ các loại thảo dược phơi khô như cúc hoa trà, lương trà (nước sâm) hay trà la hán quả. Tôi thích uống trà hoa cúc vì mùi thơm dễ chịu của nó và tính giải nhiệt tốt nhưng lại cực ghét vị ngọt của trà la hán quả cho dù đó là loại viên cô đặc bán ở các tiệm thuốc bắc hay là trái la hán phơi khô. Các xe nước sâm ở Chợ Lớn thường bán kèm trà hoa cúc lạnh với nước rong biển và nước đắng. Đi ngoài trời nắng gắt được uống một ly bông cúc đá thì còn gì bằng. Trời lạnh thì bông cúc nóng thêm tí mật ong hoặc đường phèn vị ngọt thanh thanh. Có người cầu kỳ nấu bông cúc với la hán quả hoặc thêm táo tàu và cam thảo, tôi thì chỉ thích trà cúc không thêm vị khác làm át mùi thơm thanh khiết của hoa cúc.
Một thứ trà giải nhiệt khác mà ngày trước ba tôi cũng hay nấu cho tôi uống là bắc tử thảo và hạ cô thảo nấu chung với mứt bí có vị ngọt thanh và mùi thơm rất đặc trưng mặc dù nước của món này đen như thuốc bắc. Hai món bắc tử thảo và hạ cô thảo này nếu không nấu với mứt bí mà nấu với thịt heo cũng là món canh ngon và thanh nhiệt.

Có một món ăn mà suốt bao nhiêu năm trời tôi cứ ngỡ là được làm từ trà nhưng hóa ra không phải là món chè “cấy tản chà” (hột gà nấu trà) mà từ nhỏ tôi đã rất thích. Hồi nhỏ một mình tôi có thể ăn hai ly chè hột gà trà ở tiệm chè nhà đèn Châu Giang mà vẫn còn thòm thèm. Điều duy nhất làm tôi cảm thấy ngạc nhiên không giải thích được là tại sao nước trà của món này lại có màu nâu đen đậm đặc như cà phê đen chứ không phải là màu vàng nâu của trà. Ở nhà tôi đã thử rất nhiều loại trà khác nhau để nấu món này nhưng nước vẫn là màu vàng nâu đặc trưng của trà. Cho đến một hôm, tình cờ tôi đọc được một bài báo nói về thứ thảo mộc dùng để nấu món hột gà trà này thực sự…không phải là trà mà lại là lá và cành non của một loại dâu tằm. Quả thực, đây là điều mà trước giờ tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Để chứng thực, tôi lặn lội vào các tiệm thuốc bắc ở Phùng Hưng để hỏi thử mua nguyên liệu nấu hột gà trà. Kết quả, họ đều đưa cho tôi một loại thảo dược phơi khô có lá hình răng cưa và gọi đó là “tang” có nghĩa là … dâu tằm. Thế là đã rõ, trong món hột gà trà yêu thích của tôi không hề có một tí trà nào cả. Tôi nghĩ nhiều người ăn hột gà trà cũng không biết “bí mật” này như tôi.
Sau này khi quen được một số người bạn sinh viên Trung Quốc ở Mỹ, tôi mới được thưởng thức món “hột gà nấu trà” đúng nghĩa nhưng món này hoàn toàn không giống với món chè “cấy tản chà” mà tôi thích ăn. Món “hột gà nấu trà” mà tôi được thưởng thức do các bạn người Trung Quốc làm là dùng lá trà thêm chút muối để luộc trứng còn nguyên vỏ và ăn như một món ăn vặt. Quả trứng gà được ủ trong nồi trà suốt ngày khi bóc ra có màu đen như trứng bắc thảo và có mùi thơm rất đặc trưng của trà.
Chuyện về trà của tôi còn dài nhưng hẹn các bạn vào một dịp khác ở một bài khác. Nếu có duyên tri âm, một ngày nào đó tôi sẽ mời bạn một tách trà “pủ lỷ” vỏ quýt lâu năm và tiếp tục cùng bạn đàm đạo về trà nhé.

BHV English IELTS Team

Tags

Có thể bạn quan tâm