Tôi rất thích xem kịch nói. Từ lúc còn nhỏ xíu, chưa hiểu gì nhiều về đời, tôi đã có thể ngồi xem say sưa những vở kịch dài 2-3 tiếng đồng hồ trên chiếc tivi trắng đen ở nhà từ đầu tới cuối. Lớn lên một tí, ở tuổi sinh viên, hễ có dư tí tiền là tôi lại để dành để mua vé đi xem kịch Idecaf hoặc kịch Sân Khấu Nhỏ 5B Võ Văn Tần. Lúc tôi và vợ mới hẹn hò, một trong những hoạt động yêu thích của cả hai là đi xem kịch ở nhà hát Thế Giới Trẻ trên đường Cống Quỳnh vào cuối tuần. Thói quen này vẫn được duy trì sau khi cưới nhau và chỉ tạm gián đoạn khi con tôi ra đời vì các vở kịch thường diễn tới quá khuya mà nhà tôi lại khá xa nên không tiện việc đi lại.
Không chỉ riêng tôi, người Sài Gòn đặc biệt là giới trung lưu trí thức, hầu như đều rất thích xem kịch. Mặc dù sân khấu chính kịch ở Sài Gòn chỉ bắt đầu phát triển từ giữa những năm 1980 trở đi nhưng loại hình nghệ thuật này nhanh chóng trở thành món ăn tinh thần được yêu chuộng không kém gì cải lương trong những năm 1990 với vô số các sân khấu kịch nói lần lượt xuất hiện. Nếu nói về số lượng sân khấu kịch nói và những vở diễn nổi tiếng, Sài Gòn đã nhận thứ hai thì không có tỉnh thành nào dám nhận vị trí đứng đầu trong cả nước. Quả thật, nếu nhắc tới những đặc trưng của Sài Gòn 8x mà không nhắc đến kịch nói thì quả là một thiếu sót vô cùng nghiêm trọng.
Sitcom đầu tiên ở Việt Nam
Tôi biết đến từ “sitcom” viết tắt của “situation comedy – hài tình huống” lần đầu tiên khi sống ở Mỹ vào những năm đầu thập niên 2000 với series Friends rất nổi tiếng thời kỳ đó. Tuy nhiên, khái niệm sitcom này thực sự không hề mới mẻ với tôi vì những vở hài kịch tình huống ngắn này đã rất phổ biến trên truyền hình Sài Gòn trong suốt những năm 1980 và 1990 vào mỗi tối thứ năm hàng tuần với cái tên gọi bình dị và thân quen “Chuyện trong nhà ngoài phố”, một chương trình vô cùng đậm chất Sài Gòn và được người dân Sài Gòn vô cùng yêu mến.
Có thể xem “Chuyện trong nhà ngoài phố” là chương trình sitcom vô cùng thành công của đài truyền hình thành phố trước khi khái niệm sitcom xuất hiện ở Việt Nam. Đúng với cái tên gọi “Chuyện trong nhà ngoài phố”, chương trình này những vở hài kịch ngắn xoay quanh những vấn đề “nóng” diễn ra hàng ngày ở “trong nhà” và “ngoài phố”. Với cốt truyện đơn giản và gần gũi với cuộc sống hàng ngày, lối diễn hài tuy hơi ồn ào nhưng mộc mạc dễ hiểu của miền nam và đặc biệt là sự tham gia của những nghệ sĩ hài nổi tiếng của Sài Gòn thời bấy giờ như Bảo Quốc, Phú Quý, Duy Phương, Kim Ngọc, Quốc Hòa, Mỹ Chi, Nguyên Hạnh…chương trình này là món ăn tinh thần không thể thiếu đối với mọi tầng lớp xã hội ở Sài Gòn thời bấy giờ nhất là những người lao động.
Thường thì thời lượng của một vở “Trong Nhà Ngoài Phố” sẽ dao động từ 75-90 phút, tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ là series “Cuộc Tình Trắc Trở” kéo dài đến mười mấy tập mà vẫn được khán giả xem đài ủng hộ nồng nhiệt đón chờ từng tập. Bắt đầu phát sóng số đầu tiên vào năm 1980 và kết thúc vào năm 1995, trong vòng 15 năm tồn tại, chương trình sitcom “Chuyện Trong Nhà Ngoài Phố” có một vị trí vô cùng đặc biệt trong ký ức của người dân Sài Gòn thời đó và là bệ phóng của vô số tài năng của làng hài kịch miền nam. Còn một điều nữa mà hầu như các bạn trẻ genZ đều không biết đó là chương trình Táo quân trên đài VTV của Hà Nội đêm giao thừa hằng năm với các nghệ sĩ Xuân Bắc, Tự Long, Công Lý, Vân Dung… vốn dĩ là một chương trình đặc biệt đón giao thừa của chương trình “Chuyện Trong Nhà Ngoài Phố” từ những năm 1980. Từ khi “Chuyện Trong Nhà Ngoài Phố” ngừng phát sóng, Táo quân mới “chuyển hộ khẩu” ra Bắc và ở luôn đấy cho tới ngày nay.
Kịch nói Sài Gòn trên chương trình Sân Khấu tối thứ bảy.
Ở những năm đầu của thập niên 1980, chính kịch chưa thực sự phát triển ở Sài Gòn, vốn là vùng đất của cải lương. Nhưng từ khi Nhà hát kịch Hà Nội vào Sài Gòn lưu diễn và mang vào những vở chính kịch gây tiếng vang lớn thời đó của nhà soạn kịch tài hoa bạc mệnh Lưu Quang Vũ như “Tôi và Chúng Ta”, “Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt” và “Hoa Cúc Xanh Trên Đầm Lầy” thì người Sài Gòn bắt đầu mê kịch nói. Mặc dù ở thời điểm đó, tôi còn quá nhỏ để hiểu kịch là gì nhưng tôi còn nhớ mỗi lần đoàn kịch Hà Nội vào diễn ở Sài Gòn thì người ta đổ xô đi mua vé để xem cho bằng được. Năm 1988, người yêu kịch nói ở Sài Gòn cũng đã thương tiếc cái chết bất ngờ của đôi vợ chồng Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh không kém gì đã từng thương tiếc cái chết của “nữ hoàng sân khấu cải lương” Thanh Nga trước đó 10 năm.
Những ai lớn lên trong thập niên 1980 chắc hẳn sẽ còn nhớ chương trình truyền hình “Sân Khấu” vào mỗi tối thứ bảy chuyên dành cho các loại hình sân khấu như cải lương, kịch nói, hát bội, chèo… Mặc dù lúc đầu chương trình “Sân Khấu” chủ yếu là phát cải lương, món ăn tinh thần khoái khẩu của người miền Nam, còn kịch thời đó thường là những vở kịch của miền Bắc như “Nhân Danh Công Lý” hay “Hà My Của Tôi” của đạo diễn NSND Doãn Hoàng Giang, nhưng từ cuối những năm của thập niên 1980 trở đi, số lượng các vở chính kịch miền nam bắt đầu chiếm thời lượng phát sóng nhiều hơn gần như ngang bằng với cải lương còn hát bội và hát chèo thì lâu lâu chỉ được phát sóng một vài vở diễn cho có lệ chứ không thể cạnh tranh được với cải lương và kịch nói về sức hấp dẫn.
Đến giữa thập niên 1990 thì kịch nói miền nam lại không ngừng phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng. Đây là giai đoạn được xem là “kỷ nguyên vàng” của kịch nói miền Nam hay đúng hơn là kịch nói Sài Gòn với thế hệ diễn viên tài năng hùng hậu như các nghệ sĩ Thành Lộc, Thanh Hoàng, Lê Vũ Cầu, Thành Hội, Hữu Nghĩa, Quốc Thảo, Minh Nhí, Hồng Vân, Hồng Đào, Minh Phượng, Thanh Thủy… và những vở diễn để đời như “Lôi vũ”, “Nhật xuất”, “Giải độc đắc”, “Trung phong chết trước bình minh”, “Ngôi nhà không có đàn ông” … được phát đều đặn trên truyền hình mỗi tối thứ bảy. Không hiểu sao từ khi còn học cấp 1, tôi đã rất mê kịch nói vì kịch nói hấp dẫn và thực tế hơn cải lương. Thường một vở kịch truyền hình có thời lượng phát sóng ít nhất là 2 tiếng đồng hồ và nếu bắt đầu phát sóng từ lúc 9 giờ tối thì ít nhất phải đến 11 giờ mới xong. Vậy mà tối thứ bảy nào có kịch nói thì tôi lại thức xem cùng với cả nhà cho tới hết kịch chứ không bao giờ đi ngủ trước mặc dù thời đó nhà tôi chỉ có tivi trắng đen. Tôi còn nhớ tên hết tất cả những nghệ sĩ kịch nói thời đó cũng như những vai diễn nổi tiếng của từng người nhưng tôi đặc biệt hâm mộ nghệ sĩ Thành Lộc và cố nghệ sĩ Lê Vũ Cầu và chưa từng bỏ qua bất cứ vở diễn nào có tên hai nghệ sĩ này.
Cố nghệ sĩ Lê Vũ Cầu hợp với những vai chính nghĩa, cương trực pha một chút gì đó dân dã và bụi bặm rất miền nam qua từng lời ăn tiếng nói. Sau này khi đọc về tiểu sử của ông, tôi mới biết ông có một tuổi thơ cơ cực đã từng đi bụi đời và phải làm đủ thứ nghề để kiếm sống trước khi bén duyên với sân khấu. Có lẽ chính vì vậy mà những vai diễn của cố nghệ sĩ Lê Vũ Cầu đều rất đời thực. Còn nghệ sĩ Thành Lộc vốn là con nhà nòi trong một gia đình có truyền thống sân khấu nhiều đời thì đúng nghĩa là một “phù thủy” trên sân khấu với đủ loại vai diễn chính có, tà có, điên có, tỉnh có, già có, trẻ có. Tới ngày nay, mặc dù đã có trên 30 năm hơn, tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi vai diễn quá xuất sắc của nghệ sĩ Thành Lộc như vai diễn người thư ký nghèo khổ cùng quẫn đã mua thuốc chuột về trộn với cháo cho con ăn trong “Nhật Xuất” hay người nghệ sĩ xiếc già tàn tật với cách nhìn đời bi quan yếm thế với câu thoại cay đôc: “Nuôi quạ, quạ mổ mắt” khi thấy người vợ thật thà của mình quá tin người. Những vai diễn để đời khác của nghệ sĩ Thành Lộc còn có thể kể đến vai tay “giang hồ” nhát cáy Sơn “nhớt” mở miệng ra là “lựu đạn” hay vai anh bộ đội trở về từ chiến trường Campuchia bị chấn động tâm lý do chiến tranh với câu nói cửa miệng “Duyệt không? Duyệt” và “tình thương mến thương” trong vở kịch “Sống giữa tình thương”. Những câu thoại ấy đã từng trở thành “hot trend” của giới trẻ Sài Gòn những năm 1990.
Sự bùng nổ của các sân khấu kịch ở Sài Gòn
Không chỉ thích xem kịch trên truyền hình, người Sài Gòn còn rất thích đi xem kịch ở các sân khấu kịch như một hình thức giải trí lành mạnh. Tôi nhớ khoảng những năm 1992-1993 tức là khi tôi học lớp 6, sân khấu 5B Võ Văn Tần gần hồ Con Rùa là sân khấu kịch được rất nhiều người yêu thích và luôn luôn cháy vé với những vở diễn vừa bi vừa hài vừa có thể giải trí vừa có thể lắng đọng chiêm nghiệm. Còn được gọi là “Sân Khấu Nhỏ”, sân khấu ở 5B Võ Văn Tần chỉ là một khoảng không gian nhỏ chỉ bằng ½ sân khấu bình thường với khán đài giáp ba mặt của sân khấu và hoàn toàn không hề có phông màn hay cảnh trí gì cả. Điều này khiến cho diễn viên và khán giả gần như không có khoảng cách như sân khấu truyền thống mà chỉ cách nhau có vài bước chân nên có nhiều vở kịch, diễn viên sẽ chủ động tương tác với khán giả khi diễn.
Thời kỳ đỉnh cao của sân khấu 5B Võ Văn Tần là khi đạo diễn kiêm diễn viên Thanh Hoàng ra mắt vở kịch “Dạ Cổ Hoài Lang” gây bão với hàng ngàn suất diễn bán sạch vé và đoạt bốn huy chương vàng tại liên hoan sân khấu chuyên nghiệp năm 1995. Dựa trên bài vọng cổ nổi tiếng Dạ Cổ Hoài Lang vốn được xem như là bài ca cổ “linh hồn” của đất phương Nam do cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác, vở kịch xoay quanh chuyện hai ông già Việt Kiều sống cô quạnh trên đất khách quê người nơi con cháu đều bận bịu đi làm ngồi cùng nhau ôn lại những kỷ niệm xưa khi hai người cùng yêu chung một người con gái. Với lối diễn xuất “diễn như không diễn” hai nghệ sĩ Thành Lộc và Việt Anh cùng nhau tung hứng những mảng miếng, những câu thoại lúc tưng tửng hài hước khiến khán giả cười đến vỡ rạp, lúc thì đầy hoài niệm cô đơn lấy đi nước mắt của bao người ngồi xem. Không chỉ thành công ở Việt Nam, vở Dạ Cổ Hoài Lang còn tạo được tiếng vang lớn ở các cộng đồng người Việt xa xứ ở hải ngoại mỗi lần đi lưu diễn.
Một sân khấu khác tuy ra đời sau Sân Khấu Nhỏ 5B gần 10 năm nhưng cũng thành công không kém đó là sân khấu kịch Idecaf trên đường Thái Văn Lung do nghệ sĩ Thành Lộc làm giám đốc nghệ thuật với những vở diễn để đời như “Cậu Đồng”, “Hợp Đồng Mãnh Thú”, “Trái Tim Nhảy Múa”… Đây là nơi để nghệ sĩ đa tài Thành Lộc phát huy hết khả năng sáng tạo và niềm đam mê sân khấu của mình qua nhiều vở kịch do chính ông viết và đạo diễn. Không chỉ có chính kịch, sân khấu Idecaf còn thử nghiệm khá thành công với vở nhạc kịch “Tin Ở Hoa Hồng”, một thể loại khá lạ lẫm đối với khán giả Việt Nam và series kịch thiếu nhi Ngày Xửa Ngày Xưa với những câu chuyện cổ tích chuyển thể thành ca kịch không chỉ chinh phục được những khán giả nhỏ tuổi mà còn cả các phụ huynh. Bên cạnh dàn diễn viên gạo cội như Thành Lộc, Việt Anh, Hữu Châu, Hoàng Trinh, Hồng Ánh… sân khấu Idecaf còn là nơi phát hiện và lăng xê những tài năng trẻ hơn như Đình Toàn, Đại Nghĩa, Lê Khánh, Lương Thế Thành…
Nối tiếp sự thành công về mặt nghệ thuật lẫn thương mại của sân khấu 5B và sân khấu Idecaf, trong những năm cuối thập niên 1990 và đầu những năm 2000 có khá nhiều nghệ sĩ thành lập sân khấu kịch riêng của mình như sân khấu kịch của nghệ sĩ Hồng Vân (lúc đầu tọa lạc tại trung tâm SuperBowl gần sân bay Tân Sơn Nhất, sau dời về nhà văn hóa Phú Nhuận nên còn gọi là kịch Phú Nhuận), sân khấu kịch Sài Gòn số 130 Cao Thắng vốn là rạp Đại Đồng cũ chuyên diễn các vở kịch mang màu sắc kinh dị và ma quái, sân khấu Hoàng Thái Thanh của nghệ sĩ Ái Như và Thành Hội, sân khấu hài kịch Nụ Cười Mới của cặp bài trùng Hoài Linh-Chí Tài và sân khấu Thế Giới Trẻ đường Cống Quỳnh là bệ phóng của nhiều ngôi sao mới như Thu Trang, Hoàng Phi, Khương Ngọc, La Thành, Puka, Diệu Nhi… Thậm chí có một thời gian còn rộ lên mô hình cà phê kịch với sân khấu tối giản của các bạn sinh viên khoa kịch nghệ của Cao Đẳng Sân Khấu và Điện Ảnh được dựng trong khuôn viên một quán cà phê và khách uống cà phê cũng là khán giả. Mỗi sân khấu kịch có điểm mạnh riêng của mình nên khán giả tùy theo thị hiếu cũng như diễn viên yêu thích của mình mà tìm đến sân khấu “ruột”.
Ngày nay, mặc dù các sân khấu kịch nói vẫn hoạt động đều đặn ở Sài Gòn để phục vụ khán giả nhưng dường như đã rất lâu rồi từ khi vở kịch “Bí mật vườn Lệ Chi” năm 2007 cho tới nay, kịch nói Sài Gòn không còn vở kịch nào đủ để gây tiếng vang nữa. Những nghệ sĩ ưu tú thời kỳ hoàng kim của kịch nói Sài Gòn như Thành Lộc, Việt Anh, Hữu Châu, Hồng Vân đều đã lớn tuổi và hầu hết chuyển sang làm đạo diễn hoặc chỉ đạo nghệ thuật. Một số nghệ sĩ nổi tiếng của thế hệ sau thì khá bận bịu với những dự án phim điện ảnh hoặc mở các kênh YouTube với những web drama riêng. Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng, sân khấu kịch Sài Gòn sẽ vẫn có những thế hệ nghệ sĩ trẻ kế thừa và vẫn sẽ có những vở diễn chất lượng để phục vụ cho những khán giả trung thành của mình. Ngày nào người Sài Gòn còn yêu kịch, ngày đó kịch nói Sài Gòn vẫn còn phát triển.