Thành phố vắng bóng chim thú
Nếu bạn hỏi tôi Sài Gòn có gì khác với những thành phố lớn khác trên thế giới thì tôi sẽ trả lời rằng Sài Gòn là một thành phố vắng bóng các loài chim thú hoang. Tôi đã đến từng đến nhiều thành phố khác nhau trên thế giới và những nơi tôi đến cho dù đó là thành phố hiện đại hay thành phố nghèo thì tôi vẫn thấy giữa các thành phố này có một điểm chung là các loài động vật hoang dã sống khá hòa bình và thân thiện với con người.
Ở Karachi, Pakistan, quạ khoang đậu trĩu những đường dây điện cất tiếng kêu khàn khàn còn chim ó cá và bồ nông bay lượn khắp các khu chợ. Chúng dạn người tới mức có thể sà xuống cướp cá trên tay người đi chợ. Tại Bangkok, những con kỳ đà nước to như cá sấu đi nghênh ngang trong các công viên như chốn không người. Những năm tháng sống ở Louisiana, tôi đã thường xuyên thấy cá sấu bơi lội đủng đỉnh dưới các con kênh còn các loài chim di cư trú đông thì khi mùa đông đến lại tụ tập thành từng đàn lớn ở các đầm hồ để kiếm ăn. Còn ở Miami, Florida, ngày đầu tiên khi mở cửa sổ khách sạn nhìn ra ngoài trời buổi sáng tôi đã choáng ngợp trước cảnh hàng trăm con chim ưng tung cánh bay trên bầu trời xanh ngắt. Ngay cả những thành phố hiện đại bậc nhất như Hong Kong hay Singapore thì các loài thú hoang như heo rừng hay rái cá vẫn sinh sôi nảy nở thành đàn bên cạnh những khu dân cư mà không bị bất cứ một sự quấy nhiễu của con người.
Ở Sài Gòn, ngoài vài chú chim sẻ, bồ câu hay chó mèo hoang thì hầu như không có sự hiện diện của các loài vật trong thành phố. Trong công viên họa hoằn lắm mới thấy một chú sóc chuyền cành hay một con chim sáo lẻ loi tìm mồi chứ không thấy cảnh những đàn chim ríu rít bay lượn. Các ao hồ và kênh rạch tìm mỏi mắt không ra một bóng rùa hay loài cá lớn nào đừng nói chi tới dấu vết tổ của các loài chim nước như cò vạc. Việc chung sống với muôn loài dường như không có trong tư duy của đại đa số người Việt Nam ta mà phần lớn đều có chung một suy nghĩ là phải tận diệt các loài động vật. Hễ có con vật nào lạ xuất hiện ở khu dân cư là y như rằng người ta lại tìm cách bẫy bắt để cho lên mâm lên đĩa. Không tin thì bạn cứ thử post hình một loài nào đó lên facebook thì y như rằng sẽ có hàng chục comment nửa đùa nửa thật kiểu “con này làm món gì thì ngon nhất?” hoặc “phải có thêm xị rượu nữa thì ngon lành”. Tôi đã từng block rất nhiều những người có kiểu comment khiếm nhã vì tôi không thể chấp nhận những người nhìn bất cứ loài vật nào cũng thành món ăn cả. Cái thời thiếu đói tới mức ăn bất cứ thứ gì để sống đã qua lâu lắm rồi mà!!
Con gì không ăn được thì vô phúc lảng vảng xuất hiện trong tầm ngắm của người Việt Nam ta thì cũng sẽ bị xua đuổi hoặc giết chết vì sợ xui xẻo do mê tín và thiếu hiểu biết. Tôi đã từng thấy những đứa trẻ vô tư ném đá một con cú bị thương ở cánh không bay được hoặc giẫm nát một con rắn nước vô hại với sự cổ vũ nhiệt tình của người lớn mà rùng mình. Nếu ở nước ngoài, những đứa trẻ đó chắc là sẽ được dạy cách mang con vật tội nghiệp tới trạm thú y gần nhất để cứu chữa rồi thả về với tự nhiên. Ông bà ta thường nói “đất lành chim đậu”. Chim muông tránh xa chúng ta vì chúng cảm nhận được rằng nơi này không phải là “đất lành” cho chúng.
Thú rừng trên bàn nhậu
Người Việt Nam chúng ta nói chung có một thói quen ẩm thực đáng xấu hổ là rất thích ăn các loài động vật hoang dã “phàm con gì có cánh bay trên trời mà không phải máy bay, con gì có chân ở dưới đất mà không phải bàn ghế, con gì bơi được dưới nước mà không phải tàu thuyền thì đều có thể trở thành món ăn được cả”. Người bình dân thì quen ăn theo kiểu “chim trời cá nước” cứ bắt được con gì thì ăn con nấy như thời khẩn hoang không rắn thì rùa, không cò thì vạc, miễn là có món để có thể lai rai ba xị đế. Đi trên những con đường “cửa ngõ” dẫn vào Sài Gòn, thỉnh thoảng tôi lại thấy người ta bán từng xâu chim cuốc, gà nước, ốc cau sống có, đã vặt lông thui chín cũng có. Nhìn những con chim ốm tong teo không có mấy tí thịt, tôi tự hỏi tại sao người ta lại phải ăn chúng. Còn dân đại gia thừa tiền thì học đòi theo kiểu “ăn gì bổ nấy” của mấy thẩu người Hoa Chợ Lớn bỏ tiền muôn bạc vạn để tìm những thứ nhung hươu, tai gấu, óc khỉ, pín hổ mà ăn để níu kéo cái khoản “bản lĩnh đàn ông” vốn bị rượu, thuốc lá và những cuộc truy hoan trác táng bào mòn. Không biết việc ăn uống như thế có cải thiện được gì hay không nhưng một điều mà tôi chắc chắn rằng vì nó mà động vật hoang dã ở Việt Nam từ rừng xanh lần lượt bị đưa vào Sách Đỏ.
Những năm thập niên 1980, Sài Gòn vẫn còn nhiều nơi chưa quy hoạch nên vẫn còn rất hoang vu. Khu Phú Mỹ Hưng, quận 4, quận 8 và Thủ Thiêm thời đó vẫn còn nhiều nơi là kênh rạch và lau sậy um tùm, dân cư thưa thớt. Khu quận 6 từ Phú Lâm trở ra cũng vậy. Người dân ở những khu ấy vẫn thường đặt bẫy bắt chim bắt cò về làm mồi nhậu. Đừng nói đâu xa xôi, con đường Hoàng Sa và Trường Sa dọc kênh Nhiêu Lộc ngày nay trước kia cũng toàn là đất hoang và bụi rậm. Ngày tôi còn học tiểu học ở trường Phạm Ngọc Thạch sát bờ kênh Nhiêu Lộc, mấy đứa bạn học cùng lớp nhà gần đó thường hay khoe cùng với anh trai ra bờ kênh bắt rắn, rùa hoặc làm bẫy bắt bìm bịp. Ếch nhái, lươn, cá thì cứ đến mùa mưa nước từ kênh Nhiêu Lộc dâng lên tràn cả vào trong lớp học.
Đó cũng là thời gian ở Sài Gòn có khá nhiều những nhà hàng đặc sản thịt rừng nơi những loài động vật hoang dã như nhím, dơi, rắn, rùa, kỳ đà, chồn… được nhốt trong những chiếc chuồng sắt chật hẹp đặt trong nhà hàng chờ thực khách đến chỉ tay định đoạt số phận. Trên đường Huỳnh Văn Bánh quận Phú Nhuận, khúc gần đường Hồ Biểu Chánh thời điểm đó có một nhà hàng thịt rừng tên Tri Kỷ rất nổi tiếng đối với dân nhậu Sài Gòn. Mỗi buổi sáng đi học tôi đều đi ngang qua nhà hàng Tri Kỷ và quá quen với cảnh những lồng sắt lớn bên trong chứa hàng trăm con dơi quạ đen thui treo lủng lẳng. Dơi có một mùi hôi rất đặc trưng bốc mà mỗi lần đi ngang qua đó tôi đều phải nín mũi lại để khỏi phải nôn mửa. Cái mùi hôi đó ám ảnh tôi đến bây giờ, nhắc lại vẫn còn cảm thấy buồn nôn nhưng không hiểu sao nhiều người rất thích ăn dơi. Ngoài dơi, nhà hàng Tri Kỷ còn tiêu thụ rất nhiều rắn các loại, từ những loài rắn không độc như hổ hành hay rắn ri voi cho tới rằn độc như cạp nong hay hổ mang. Và dĩ nhiên, rắn càng độc thì càng đắt tiền. Quán Tri Kỷ nằm trên đường Huỳnh Văn Bánh một thời gian khá lâu sau đó dời sang mặt bằng rộng hơn trên đường Nguyễn Đình Chinh vẫn kinh doanh thịt rừng cho tới giữa thập niên 1990 mới ngưng bán động vật hoang dã.
Muốn mua thịt rừng đã sơ chế về để nấu nướng cứ đến đường Phạm Viết Chánh, đoạn mũi tàu giáp đâm ra bùng binh Lý Thái Tổ, Nguyễn Văn Cừ nơi bây giờ là quán karaoke Nice tọa lạc. Khi tôi còn nhỏ, khúc đường này có một dãy chừng 10 hộ gia đình chuyên kinh doanh thịt rừng. Những loài thú lớn như nai và heo rừng thì thịt được cắt thành tảng hoặc có khi là nguyên phần đùi còn nguyên lông lá (để chứng minh là hàng thật 100%) và móc treo lủng lẳng trên các sạp như người ta treo bán thịt bỏ thịt heo, còn những loài thú nhỏ như cầy, chồn, tê tê (người miền Nam gọi là con trút) hay cheo cheo thì bỏ trong lồng bán sống cho người mua. Tôi lúc còn nhỏ do hiếu kỳ nên cũng muốn ăn thịt rừng cho biết. Chiều ý tôi, bác Hai nhiều lần cất công đạp xe từ đường Nguyễn Chí Thanh ra Phạm Viết Chánh để mua khi thì thịt nai, khi thì thịt heo rừng về nấu cho tôi ăn. Có lần bác còn mua cả một con rắn đã được lột da và làm sạch sẽ để nấu canh cho tôi ăn. Sau này khi lớn lên có ý thức về bảo vệ môi trường, tôi không còn hứng thú với việc ăn thịt thú rừng nữa. Lần cuối cùng tôi ăn thịt động vật hoang dã là cách đây hơn 10 năm khi được mời tới dự bữa tiệc họp mặt của một cậu bạn Việt Kiều mà trong đó có món rắn hổ mang bị cắt tiết để lấy mật, và máu ngay tại bàn để pha rượu uống. Nhìn con rắn bị moi tim quằn quại trên tay của đầu bếp còn quả tim rắn bằng hạt đậu phộng cứ thoi thóp đập trên bàn ăn cho tới tàn cuộc nhậu mà tôi cảm thấy mình tàn nhẫn ghê gớm đến mức mất luôn khẩu vị ngày hôm đó. Từ đó trở về sau, tôi trở nên có ác cảm với những người bất cứ con gì cũng có thể đưa lên bàn nhậu làm mồi cho thỏa cái sự háu ăn hoặc để chứng tỏ rằng mình có tiền muốn ăn gì mà chẳng được.
Chợ chim thú lộ thiên ở Sài Gòn
Ở Sài Gòn, thỉnh thoảng chạy xe trên đường bạn vẫn sẽ bắt gặp một số người bán động vật hoang dã trái phép như rùa, sóc, đại bàng, diều hâu… ở các lề đường dành cho người thích nuôi thú cưng độc lạ. Chỉ cách đây chừng chục năm thôi, phía trước cổng Việt Nam Quốc Tự trên đường 3/2 và trước cổng trường Lê Quý Đôn đối diện dinh Độc Lập là nơi dân chơi rùa từ chuyên nghiệp tới amateur có thể lượn lờ để tìm mua nhiều loại rùa có trong Sách Đỏ Việt Nam như rùa núi vàng, rùa hộp lưng đen, rùa đất lớn, rùa sa nhân…thậm chí là có cả rùa hộp trán vàng cực kỳ quý hiếm với giá chỉ vài trăm ngàn một con. Dân chơi các loài chim săn mồi như đại bàng, điều hâu, cú, quạ… thì thường “săn hàng” ở khu mũi tàu Cộng Hòa-Trường Chinh, cách cầu Tham Lương độ 500m. Còn từ Trường Chinh chỉ cần quẹo vào đường Phạm Văn Bạch một chút là có cả chục nhà bán đủ các loại chim nước như cò trắng, cò nhạn, trích cồ, ốc cau… và các loại rắn nước để làm mồi cho dân nhậu.
Gần đây, có vẻ việc kiểm soát mua bán động vật hoang dã đã được thắt chặt nên những “chợ thú hoang” tự phát như thế đều bị dẹp bỏ. Đối với tôi, đó là một điều đáng mừng vì cứ săn bắt theo kiểu tận diệt chim trời cá nước thế nào thì chẳng mấy chốc con cháu chúng ta chỉ có thể ngắm động vật hoang dã trong vườn thú hoặc trên các chương trình thế giới động vật trên tivi mà thôi. Nói thật, mỗi lần nhìn thấy du khách nước ngoài chỉ trỏ những con vật hoang dã bị buộc chân bán trên lề đường Sài Gòn, tôi cảm thấy hết sức xấu hổ và khó chịu vì tôi biết họ đang nghĩ gì và nói gì trước những hình ảnh như thế.
Sài Gòn trước năm 2000 đã từng tồn tại nhiều khu chợ quy mô lớn bán động vật rừng còn sống và các sản phẩm được làm từ động vật rừng ngay tại những khu trung tâm đắc địa chứ không phải là những khu vùng ven hoặc trên đường ra ngoại thành. Trước khi khách sạn New World được xây dựng, phần đất trên đường Lê Lai mà bây giờ là quán cafe Starbucks sang chảnh vốn từng là một khu chợ tự phát bán chó mèo, chim cảnh và nhiều loại động vật hoang dã nên được người dân Sài Gòn thời đó gọi là “chợ chim, chợ chó Lê Lai”. Nơi này cũng từng là nơi tụ tập của các đối tượng xì ke ma túy thời đó nên được xem là địa bàn khá phức tạp. Từ khi khu đất đó được thu hồi để xây dựng khách sạn New World năm 1990, khu “chợ chim chợ chó” Lê Lai vĩnh viễn bị xóa sổ. Bây giờ chỉ có những người sống ở Sài Gòn từ những năm 1980 về trước mới nhớ đến khu chợ này.
Mũi tàu Thuận Kiều – Hùng Vương trước khi khu chung cư Thuận Kiều Plaza được xây dựng cũng đã từng là một khu chợ chim thú có tiếng. Hồi còn nhỏ, tôi hay đi bộ ra đó để bắt dế và cào cào chơi và dạo chợ ngắm các loài vật. Với khoảng 20 cửa hàng tạm bợ sát nhau, chợ chim thú Thuận Kiều bán đủ loại thú nuôi thông thường từ chó, mèo, gà chọi, chim két, yến phụng, bồ câu, chuột lang…cho tới các loại rắn (đa số là rắn lục), chim bìm bịp, rùa…Thỉnh thoảng nơi này còn có một số loài động vật quý hiếm như rái cá, khỉ vàng, vượn đen má trắng, hồng hoàng thậm chí có cả đại bàng. Có lần tôi thấy người ta ngã giá bán một con báo con còn sống được bỏ trong một bao tải loại đựng gạo. Người mua là một người đàn ông trung niên đi xe hơi bốn chỗ ra dáng đại gia. Không hiểu ông ta mua con báo về với mục đích nuôi làm thú cưng hay cho vào hũ ngâm rượu. Sau này khi xây dựng khu phức hợp Thuận Kiều Plaza, chợ chim thú này cũng bị giải tỏa. Giờ đây, tàn tích của chợ chim thú Thuận Kiều là độ chục người bán sâu, dế và cám cho chim cảnh với vài lồng chim phóng sinh bày hàng ở khu vực lân cận.
Nhưng nếu nói về hai khu chợ bán động vật hoang dã có quy mô lớn nhất Sài Gòn thời bấy giờ thì không nơi nào qua được chợ Cầu Mống ở quận 4 và một khu chợ nữa nằm trên đường 3/2 đoạn nằm giữa Lê Đại Hành và Lý Thường Kiệt mà khu đất ấy bây giờ nếu tôi nhớ không lầm đã được sử dụng để làm bãi để xe du lịch. Tôi đã từng đến hai khu chợ này khi còn học cấp 2 vì tò mò và quả thật ấn tượng của tôi lúc đó là giống như đi lạc vào những vườn thú ngầm nơi các loài động vật hoang dã cực kỳ quý hiếm như rắn hổ, trăn đất, mẻo rừng, báo mây, culi, vượn, công, trĩ, tê tê, kỳ đà… thậm chí là gấu chó được bày bán công khai. Đó là còn chưa kể tới những sản phẩm được làm từ động vật như những xác động vật nhồi bông, những đầu nai, đầu bò tót (hay còn gọi là con min) đầy đủ sừng gạc dùng để treo trong nhà làm vật trang trí để chứng tỏ vị thế đại gia của mình trong mắt thiên hạ. Dân chơi ít tiền hơn thì có thể mua ví, thắt lưng, giày làm bằng da trăn hoặc da cá sấu, vô số móng hổ, nanh heo rừng nạm vạng nạm bạc làm mặt dây chuyền để đeo quanh cổ như một thứ bùa hộ mạng. Nhưng thứ làm tôi ấn tượng nhất là những bình rượu rất to trong đó ngâm đủ loại động vật từ các loại rắn cuộn tròn chồng lên nhau bên cạnh những con bìm bịp non còn chưa thay lông cho tới những hũ rượu chứa xác những con khỉ con hoặc hươu con. Có bình chứa cả xác một con hổ con chưa mở mắt. Số phận của hai chợ chim thú này sau này như thế nào thì tôi không rõ vì cũng không có dịp đi ra đó nhiều, chỉ biết rằng sau năm 2000, cả hai khu này đều bị giải tỏa theo quy hoạch mới của thành phố. Có lần tôi vô tình xem được trên Youtube một đoạn clip xưa quay cảnh buôn bán động vật hoang dã ở chợ Cầu Mống và giật mình khi thấy loài rùa đầu to hay còn gọi là rùa mỏ vẹt, một loài rùa đặc hữu và vô cùng quý hiếm ở Việt Nam được bán khá nhiều ở đây. Giờ đây loài rùa này chỉ còn lại rất ít và nằm trong danh sách những loài động vật bị cấm mua bán.
Tất cả những khu chợ chim thú hoang dã quy mô lớn mà tôi kể lại ở trên giờ đều đã bị giải tỏa và trở thành ký ức của những người Sài Gòn ngoài 30 tuổi từng sống ở gần đó, chứ thế hệ sinh sau năm 2000 thì không bao giờ biết đến chúng. Sự cáo chung của hinh thức chợ này không biết là do việc quản lý và bảo tồn động vật hoang dã của ta đã tiến bộ hơn trước nhiều hay là vì ngày nay thú rừng không còn nhiều như trước để có thể họp chợ nữa. Bây giờ nhớ lại, tôi vẫn thắc mắc rằng chẳng lẽ chỉ khoảng 30 năm trước đây việc buôn bán động vật hoang dã đã từng là một ngành kinh doanh hợp pháp? Nếu thực sự như thế thì quả thật là rất kinh khủng, chả trách sao các loài động vật rừng Việt Nam cứ lần lượt đứng trước bờ vực tuyệt chủng.